rồng – Wikipedia tiếng Việt

Banner-backlink-danaseo

Múa lân (giản thể: 舞狮; phồn thể: 舞獅; bính âm: wǔshī; Hán Việt: vũ sư) là một môn nghệ thuật múa dân gian đường phố có nguồn gốc từ Trung Quốc, thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu, vì ba con thú này tượng trưng cho thịnh vượng, phát đạt, hạnh phúc, hanh thông,…Múa lân thường được biểu diễn trong dịp tết và các lễ hội truyền thống, văn hóa và tôn giáo khác của Trung Quốc. Nó cũng có thể được thực hiện tại các dịp quan trọng như sự kiện khai trương kinh doanh, lễ kỷ niệm đặc biệt hoặc lễ cưới hoặc có thể được sử dụng để tôn vinh những vị khách đặc biệt của cộng đồng Trung Quốc.

Múa Lân – Sư – Rồng không những là thẩm mỹ và nghệ thuật trong dân gian mà còn là sự tranh tài với nhau giữa những đội múa. Tùy theo khoảng trống rộng hay hẹp, tùy theo ý nghĩa của dịp liên hoan, đội Lân-Sư-Rồng màn biểu diễn từng bài, từng cách múa cho tương thích. Có thể phối hợp múa lân với sư, múa lân với rồng hoặc phối hợp cả ba thể loại với nhau .Trong màn trình diễn múa lân, sư, rồng, không hề thiếu Ông Địa, một người bụng phệ ( do độn vải, nếu không độn thì cần một người béo đóng giả ) mặc áo dài, tay cầm quạt giấy to phe phẩy, mang mặt nạ ông địa đầu hói tròn cười toe toét đi theo giỡn lân, giỡn khách xem múa hoặc mua vui cho gia chủ. Ông Địa được cho là hiện thân của Đức Di Lặc, một vị Phật lúc nào cũng vui tươi hiền lành. Truyền thuyết kể rằng Đức Di Lặc đã hóa thân thành người và khắc chế được một quái vật ( con lân ) từ dưới biển lên bờ phá hoại. Đức Di Lặc hóa thân thành người, gọi là ông Địa, lấy cỏ linh chi trên núi cho quái vật ăn và thu phục được nó, biến nó thành con thú ăn thực vật .

Từ đó, mỗi năm ông Địa lại dẫn nó xuống núi chúc Tết mọi người, chứng tỏ quái thú đã thành thú lành, cái ác trở thành cái thiện. Ông Địa và con lân đi đến đâu là giáng phúc tới đó nên nhà nào cũng hoan hỉ treo rau xanh và giấy đỏ đón chào. Sau này, người có tiền thường treo giải bằng tiền buộc trong một miếng vải đỏ, treo cùng bắp cải hoặc rau xanh. Lân phải trèo lên cao lấy bằng được “thức ăn” này. Tất nhiên, ông Địa không cùng trèo với Lân mà chỉ cùng lân múa, phe phẩy chiếc quạt to, ru lân ngủ hoặc đánh thức lân dậy. Cảnh ông Địa vuốt ve lân và lân mơn trớn ông Địa, thể hiện được tình cảm và sự hòa hợp sâu sắc giữa loài vật và loài người trong một bầu không khí thanh bình, hoan lạc.

Chi tiết bức tranh thời nhà Tống ” Một trăm trẻ nhỏ chơi trong mùa xuân ” ( 百子嬉春图页 ) của Tô Hán Thần ( 苏汉臣 ) cho thấy trẻ nhỏ trình diễn múa lân

Đã có một truyền thống lâu đời ở Trung Quốc về các vũ công đeo mặt nạ để giống với động vật hoặc quái vật thần thoại từ thời cổ đại, và các màn trình diễn được mô tả trong các văn bản cổ như Kinh Thư, nơi những con thú hoang và phượng hoàng nhảy múa có thể bị che giấu. Trong các nguồn của nhà Tần, các vũ công thực hiện các nghi thức trừ tà được mô tả là đeo mặt nạ da gấu, và nó cũng được đề cập trong các văn bản của nhà Hán rằng “tượng nhân” (象人) thực hiện như cá, rồng và phượng hoàng. Tuy nhiên, sư tử không có nguồn gốc từ Trung Quốc (một loài được tìm thấy ở Đông Bắc Trung Quốc Panthera youngi đã bị tuyệt chủng từ rất lâu), và múa lân do đó được cho là có nguồn gốc bên ngoài Trung Quốc từ các quốc gia như Ấn Độ hoặc Ba Tư, và được giới thiệu qua toàn Châu Á.

Theo nhà nghiên cứu dân tộc học Laurence Picken, từ tiếng Trung của sư tử, shi (獅, được viết là 師 trong thời kỳ đầu), có thể đã được bắt nguồn từ từ šer trong tiếng Ba Tư. Việc sử dụng sớm nhất từ Shizi có nghĩa là sư tử xuất hiện lần đầu tiên trong các văn bản của nhà Hán và có mối liên hệ chặt chẽ với Trung Á (một thuật ngữ thậm chí sớm hơn nhưng lỗi thời đối với sư tử là suanni (麑 hoặc狻猊)), và sư tử đã được trình bày trước triều đình Han bởi các sứ giả từ Trung Á và Đế chế Parthia. Những mô tả chi tiết về múa lân xuất hiện từ thời nhà Đường và nó đã được các nhà văn và nhà thơ công nhận sau đó là một điệu nhảy nước ngoài, tuy nhiên, múa lân có thể được ghi nhận ở Trung Quốc ngay từ thế kỷ thứ ba sau Công nguyên, trong đó “hành vi sư tử” được nhắc đến bởi một học giả Tam Quốc, Mạnh Khang (孟康) trong một bài bình luận về Hán thư.

Trong thời kỳ đầu, nó có tương quan đến Phật giáo : nó đã được ghi lại trong một văn bản Bắc Ngụy, Mô tả về những ngôi chùa Phật giáo ở Lạc Dương ( 伽藍 記 ), rằng một cuộc diễu hành cho một bức tượng Phật của một ngôi chùa đã được một con sư tử dẫn đi linh hồn ma quỷ. Do đó, một gợi ý khác là điệu nhảy hoàn toàn có thể được tăng trưởng từ một truyền thống cuội nguồn địa phương chiếm đoạt hình tượng đạo Phật của sư tử. Có những phiên bản khác nhau của điệu nhảy trong nhà Đường. Trong triều đình nhà Đường, điệu múa sư tử được gọi là Đại nhạc độc lập ( 太平樂, Taiping yue ) hoặc Vũ điệu sư tử của năm hướng ( 五方師子舞 ) trong đó năm con sư tử lớn có sắc tố khác nhau và biểu lộ tâm trạng khác nhau và thao túng trên dây bởi hai người, và kèm theo 140 ca sĩ .
Minh họa của Nhật Bản về một điệu nhảy sư tử mà 1 số ít người tranh luận đại diện thay mặt cho điệu múa sư tử thời nhà Đường được diễn đạt bởi Bạch Cư Dị. Bức tranh gốc có niên đại từ thời HeianTrong một diễn đạt khác, năm con sư tử được miêu tả là mỗi con cao hơn 3 mét và mỗi con có 12 ” sư tử “, chúng hoàn toàn có thể trêu chọc những con sư tử bằng tiếng rỉ tai đỏ. Một phiên bản khác của múa lân được nhà thơ Tang Juyi diễn đạt trong bài thơ ” Nghệ thuật Tây Lương ” ( 西凉伎 ), trong đó điệu nhảy được trình diễn bởi hai vũ công hu ( 胡, nghĩa là người không phải người Hán đến từ Trung Á ) người mặc phục trang sư tử làm từ đầu gỗ, đuôi lụa và thân hình lông xù, với đôi mắt mạ vàng và răng mạ bạc cũng như đôi tai chuyển dời, một hình dạng giống với múa lân thời nay. Đến thế kỷ thứ tám, điệu nhảy sư tử này đã đến Nhật Bản. Vào thời nhà Tống, múa lân thường được màn biểu diễn trong những liên hoan và nó được gọi là Sư tử phương Bắc trong thời Nam Tống .Sư tử phương Nam là một sự tăng trưởng sau đó ở phía nam Trung Quốc bắt nguồn từ tỉnh Quảng Đông. Có 1 số ít truyền thuyết thần thoại tương quan đến nguồn gốc của Sư tử phương Nam : một câu truyện tương quan đến việc điệu nhảy bắt nguồn từ một lễ kỷ niệm tại một ngôi làng nơi một con quái vật thần thoại cổ xưa tên là Nian đã bị đuổi đi thành công xuất sắc ; Hoàng đế Càn Long đã mơ thấy một con vật tốt đẹp khi đi du ngoạn miền Nam Trung Quốc, và ra lệnh rằng hình ảnh của con vật được tái tạo và sử dụng trong những tiệc tùng. Tuy nhiên, có năng lực sư tử phương Nam Quảng Châu Trung Quốc là một sự thích nghi của sư tử phương Bắc với những lịch sử một thời và đặc thù địa phương, có lẽ rằng trong thời nhà Minh .

Múa lân và sư tử[sửa|sửa mã nguồn]

Hai loại múa lân chính ở Trung Quốc là sư tử phương Bắc và Nam. Tuy nhiên, cũng có 1 số ít hình thức múa lân địa phương ở những khu vực khác nhau của Trung Quốc, và 1 số ít trong những con sư tử này hoàn toàn có thể có sự độc lạ đáng kể về ngoại hình, ví dụ Sư tử xanh ( 青獅, Thanh sư ) và sư tử Đài Loan ( 明狮, Minh sư ) phổ cập với người Phúc Kiến và Đài Loan. Các nhóm dân tộc thiểu số khác ở Trung Quốc cũng hoàn toàn có thể có điệu nhảy sư tử của riêng họ, ví dụ như điệu múa sư tử của người thiểu số Hồi giáo ở huyện Trầm Khâu ở Hà Nam được gọi là sư tử Ôn, cũng như huyện Vĩnh Đức, Lan Châu, Cam Túc, và Vĩnh Ninh và nước Vũ Trung, Ninh Hạ, và sư tử Khách Gia — phổ cập trong người Khách Gia — rất giống với cả sư tử Phúc Kiến và sư tử Đài Loan — và thậm chí còn cả sư tử Ôn — nhưng sư tử Khách Gia hoàn toàn có thể có hoặc không có sừng trên đầu — tựa như như sư tử phương bắc và phương nam — cũng được link với vũ trường, một loại sinh vật thần thoại cổ xưa và là vật cưỡi cho bồ tát, Địa Tạng, hoặc đèn lồng, một loại khác loại sinh vật thần thoại cổ xưa và là vật cưỡi cho bồ tát, Quán Thế Âm .Múa lân Trung Quốc thường có sự tham gia của hai vũ công nhưng cũng hoàn toàn có thể được triển khai bởi một người. Những con sư tử lớn hơn do hai người thao túng hoàn toàn có thể được gọi là những con sư tử lớn ( 太獅, Hán Việt : đại sư ) và những con sư tử bị một con sư tử nhỏ ( 少獅, Hán Việt : tiểu sư ) thao túng. Các buổi màn biểu diễn cũng hoàn toàn có thể được chia thành những phong thái dân sự ( 獅 ) và võ thuật ( 武獅 ). Phong cách dân sự nhấn mạnh vấn đề tính cách và bắt chước và hành vi của sư tử, trong khi phong thái võ thuật tập trung chuyên sâu vào những màn nhào lộn và những động tác can đảm và mạnh mẽ. Có những hình thức khiêu vũ tương quan với những hình mặt nạ đại diện thay mặt cho những sinh vật truyền thuyết thần thoại như long mã, kỳ lân, Đoạn đường, giải trãi, và tỳ hưu. Điệu nhảy kỳ lân và điệu nhảy tỳ hưu thường được thực thi bởi những người Khách Gia có nguồn gốc từ miền bắc Trung Nam Trung Quốc, nhưng phần đông đã định cư ở phía nam Trung Quốc và Khu vực Đông Nam Á trong thời tân tiến. Các hình thức múa lân khác nhau cũng được tìm thấy thoáng rộng ở những nước Đông Á như Nhật Bản, Nước Hàn, Nước Ta, cũng như trong những hội đồng ở khu vực Hy Mã Lạp Sơn .

Sư tử Bắc Trung Quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Sư tử phương Bắc

Sư tử phương Bắc Trung Quốc (giản thể: 北狮; phồn thể: 北獅; bính âm: Běi shī; Hán Việt: Bắc sư) thường được biểu diễn như một cặp sư tử đực và cái ở phía bắc Trung Quốc. Sư tử phương Bắc có thể có một cái đầu gỗ sơn vàng, và mái tóc đỏ và vàng xù xì với chiếc nơ đỏ trên đầu để biểu thị một con sư tử đực, hoặc một chiếc nơ màu xanh lá cây (đôi khi là màu xanh lá cây) để đại diện cho con cái. Tuy nhiên, có những biến thể khu vực của sư tử.

Sư tử phương Bắc giống với chó Bắc Kinh hoặc sư tử đá và những hoạt động của nó giống như thật trong khi màn biểu diễn. Nhào lộn rất phổ cập, với những pha nguy khốn như giữ cân đối trên mai hoa thung hoặc trên một quả bóng khổng lồ. Sư tử phương Bắc đôi lúc Open như một mái ấm gia đình, với hai con sư tử lớn ” trưởng thành ” và một cặp ” sư tử nhỏ ” nhỏ. Thường có hai người trình diễn trong một con sư tử trưởng thành và một con sư tử non. Cũng hoàn toàn có thể có một nhân vật ” chiến binh ” nắm giữ một vật thể hình cầu và dẫn dắt những con sư tử .

Điệu nhảy của Sư tử phương Bắc nói chung vui tươi hơn Sư tử phương Nam. Các khu vực có các đoàn múa lân nổi tiếng bao gồm Ninh Hải ở Ninh Ba, Từ Thủy ở tỉnh Hà Bắc, Đại Liên ở tỉnh Liêu Ninh, và Bắc Kinh. Có một số biến thể của màn trình diễn múa lân, ví dụ như múa lân trên tháp Thiên đàng (giản thể: 天塔狮舞; phồn thể: 天塔獅舞; bính âm: Tiān tǎ shī wǔ) từ huyện Xiangfen ở Sơn Tây là một hiệu suất theo đó một số con sư tử trèo lên một cấu trúc tháp cao được xây dựng từ những chiếc ghế gỗ, và cũng có những hành động dây cao liên quan đến sư tử.

Sư tử Nam Trung Quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Sư tử phương Nam

Sư tử phương Nam Trung Quốc (giản thể: 南狮; phồn thể: 南獅; bính âm: Nán shī; Hán Việt: Nam sư) hoặc múa lân Quảng Đông có nguồn gốc từ Quảng Đông. Sư tử phương Nam có một chiếc sừng duy nhất, và được liên kết với truyền thuyết về một con quái vật thần thoại tên là Nian. Con sư tử bao gồm một cái đầu được xây dựng theo truyền thống sử dụng papier-mâché trên khung tre được phủ bằng gạc, sau đó được sơn và trang trí bằng lông thú, và một cơ thể làm bằng vải xếp lớp bền được tỉa bằng lông nhiều hơn. Tuy nhiên, những con sư tử mới hơn có thể được chế tạo bằng vật liệu hiện đại như nhôm thay vì tre và nhẹ hơn. Các phiên bản mới hơn cũng có thể áp dụng vật liệu hiện đại sáng bóng hơn so với sơn mài truyền thống như nhãn dán sequin hoặc laser nhưng chúng không tồn tại lâu như những loại có sơn mài nửa mờ. Tùy thuộc vào loại sư tử (Truyền thống hoặc hiện đại), các loại lông khác nhau có thể được sử dụng.

Có hai phong cách chính của Sư tử Quảng Đông hoặc Quảng Đông: Fut San hoặc Phật Sơn (bính âm: Fúshān; nghĩa đen: ‘Núi Phật’), và Hok San hoặc Hạc Sơn (giản thể: 鹤山; phồn thể: 鶴山; bính âm: hèshān; nghĩa đen: ‘Núi cẩu’), cả hai đều được đặt tên theo nơi xuất xứ của chúng. Các phong cách nhỏ khác bao gồm Phật-Hạc (lai giữa Phật Sơn và Hạc Sơn được tạo ra ở Singapore bởi Kong Chow Wui Koon vào những năm 1960) và Trung Ngoại Chu Gia (được thực hiện bởi các học viên của kungfu theo phong cách gia đình Jow). Các loại sư tử khác nhau có thể được xác định từ thiết kế của đầu sư tử.

Phật Sơn là phong thái được nhiều phe phái kung fu vận dụng. Nó yên cầu sức mạnh trong những động tác và sức mạnh trong tư thế, sử dụng những tư thế kung fu để trợ giúp với những hoạt động và xúc cảm sắc nét, và chỉ những sinh viên tiên tiến và phát triển nhất mới được phép màn biểu diễn. Theo truyền thống lịch sử, sư tử Phật Sơn có lông thay vì lông và nặng hơn những con văn minh được sử dụng phổ cập lúc bấy giờ. Nó cũng có một cái đuôi rất dài và mắt xoay trái và phải. Ở mặt sau có vành vàng và một khu vực mạ vàng được gọi là cổ áo nơi tên của đoàn kịch hoàn toàn có thể được khâu vào .Tất cả những phong thái truyền thống cuội nguồn của Phật Sơn đều có răng hành lang cửa số bật lên ở đầu, lưỡi và mắt xoay. Mặt dưới của đuôi có màu trắng ; những phong cách thiết kế của đuôi cũng vuông hơn và có hoa văn kim cương đi xuống phía sau, và thường có chuông gắn ở đuôi. Nó có cái trán cao, đôi môi cong và cái sừng sắc nhọn trên đầu. Sư tử Phật Sơn truyền thống cuội nguồn có hình dáng trang trí công phu, một số ít phong thái khu vực tuy nhiên đã tăng trưởng trên khắp quốc tế. Các kiểu mới hơn của sư tử Phật Sơn thay thế sửa chữa toàn bộ những lông bằng lông và đuôi ngắn hơn. Đôi mắt được cố định và thắt chặt tại chỗ, và lưỡi và răng không bật lên. Đuôi cong hơn trong phong cách thiết kế, không có hoa văn kim cương và thiếu chuông .
Múa sư tử ở Nước Singapore

Sư tử phong cách Hạc Sơn được biết đến với sự phong phú về biểu cảm, bước chân độc đáo, ngoại hình ấn tượng và phong cách đánh trống mạnh mẽ. Người sáng lập phong cách này được cho là “Vua sư tử Quảng Đông” Phùng Canh Trường (giản thể: 冯庚; phồn thể: 馮庚; bính âm: Féng Gēngzhǎng) vào đầu thế kỷ 20. Ông được sinh ra tại một ngôi làng thuộc quận Hạc Sơn ở Quảng Đông và được cha mình hướng dẫn về võ thuật và múa sư tử. Sau đó, anh cũng học võ thuật và múa lân Nam ở Phật Sơn trước khi trở về quê nhà và thành lập phòng huấn luyện của riêng mình. Ông đã phát triển phiên bản múa lân độc đáo của mình, tạo ra các kỹ thuật mới bằng cách nghiên cứu và bắt chước chuyển động của mèo, như “bắt chuột, chơi, bắt chim, trốn cao, nằm thấp và lăn”.

Ông và những đệ tử của mình cũng đã đổi khác đầu sư tử, trán thấp hơn, sừng tròn và nó có miệng mỏ vịt với đôi môi phẳng. Cơ thể của sư tử cũng can đảm và mạnh mẽ hơn về cấu trúc với sắc tố đẹp mắt. Cùng với những bước nhảy mới và những bước chân nhanh gọn, một nhịp điệu độc lạ được ông ý tưởng gọi là ” Chiếc trống bảy sao “, Feng đã tạo ra một phong thái múa lân mới có giá trị vui chơi cao và mê hoặc thị giác. Đầu những năm 1920, điệu nhảy sư tử He Shan được trình diễn khi Tôn Trung Sơn nhậm chức tại Quảng Châu Trung Quốc, và tạo ra một sự khuấy động. Khoảng năm 1945, những người màn biểu diễn sư tử Hạc Sơn thường được mời trình diễn ở nhiều nơi trong Trung Quốc và Khu vực Đông Nam Á trong những liên hoan kỷ niệm. Phong cách Hạc Sơn trở nên rất phổ cập ở Nước Singapore ; con sư tử có được thương hiệu ” Vua sư tử của những vị vua ” và có một ký tự ” vua ” ( 王 ) trên trán. Sự cải tổ hơn nữa đã được Hiệp hội sư tử Hạc Sơn Singapore triển khai, ví dụ như làm cho con sư tử trở nên ” giống mèo ” hơn bằng cách rút ngắn đuôi của sư tử Hạc Sơn và tạo ra tiếng trống mới cho điệu nhảy .Màu sắc khác nhau được sử dụng để bộc lộ tuổi và tính cách của sư tử. Sư tử có bộ lông trắng được coi là con già nhất trong số những con sư tử, trong khi sư tử có bộ lông màu vàng vàng là con giữa. Sư tử đen được coi là sư tử nhỏ tuổi nhất và hoạt động của sư tử này phải nhanh như một đứa trẻ hoặc một thiếu niên cứng đầu. Màu sắc cũng hoàn toàn có thể đại diện thay mặt cho tính cách của sư tử : sư tử vàng đại diện thay mặt cho sự sôi động, lòng quả cảm của sư tử đỏ và tình bạn của sư tử xanh. Ngoài ra còn có ba loại sư tử đại diện thay mặt cho ba nhân vật lịch sử dân tộc được ghi lại trong Lãng mạn cổ xưa của Tam Quốc chí, những người bạn bè có lời thề máu đã thề Phục hồi lại triều đại nhà Hán : Múa sư tử Hạc Sơn đã được nhiều nhóm văn minh đồng ý, chỉ để lại một vài nhóm truyền thống lịch sử – tương quan đến chính Trung Ngoại Chu Gia .
Sư tử Lưu Bị

  • Sư tử Lưu Bị (Việt bính: Lau Pei) là con cả trong ba anh em và có màu vàng (thực ra là màu vàng hoàng gia khi trở thành hoàng đế đầu tiên của Vương quốc Thục Hán) với bộ râu và lông trắng (để biểu thị sự khôn ngoan của nó). Nó có một cái đuôi nhiều màu (với mặt dưới màu trắng) biểu thị màu sắc của năm yếu tố. Sư tử già Liu Bei cũng có màu đen ở đuôi trong khi những con mới thì không. Có ba đồng xu trên cổ áo. Con sư tử này được sử dụng bởi các trường học với một bậc thầy về võ thuật (sư phụ) đã được thành lập và được biết đến với tên gọi là Thụy sư (giản thể: 瑞獅; phồn thể: 瑞狮; bính âm: Ruì Shī; nghĩa đen: ‘Sư tử ngoan ngoãn’).

Sư tử Quan Công có thân là bộ lông màu đen

  • Sư tử Quan Công (Việt bính: Kwan Kung) có khuôn mặt màu đỏ, lông đen, với bộ râu đen dài (vì nó còn được gọi là “Công tước có bộ râu đẹp”). Đuôi có màu đỏ và đen với viền trắng và mặt dưới màu trắng. Nó được biết đến như là anh trai thứ hai và thể thao hai đồng xu trên cổ áo. Sư tử này được gọi là Tỉnh sư (giản thể: 醒狮; phồn thể: 醒獅; bính âm: Xǐng Shī; nghĩa đen: ‘Sư tử thức tỉnh’).
  • Sư tử Trương Phi (Việt bính: Cheung Fei) có khuôn mặt màu đen với bộ râu đen ngắn, đôi tai nhỏ và lông đen. Đuôi có màu đen và trắng với viền trắng và mặt dưới màu trắng. Theo truyền thống, con sư tử này cũng có chuông gắn trên cơ thể. Là em út trong ba anh em, chỉ có một đồng xu duy nhất trên cổ áo. Sư tử này được gọi là Đấu sư (giản thể: 斗狮; phồn thể: 鬥 獅; bính âm: Dòu Shī; nghĩa đen: ‘Sư tử chiến đấu’) vì Trương Phi có tính nóng nảy và thích chiến đấu. Con sư tử này được sử dụng bởi các câu lạc bộ mới bắt đầu hoặc bởi những người muốn thực hiện một thử thách.

Sư tử xanh lục[sửa|sửa mã nguồn]

Sư tử xanh (giản thể: 青狮; phồn thể: 青獅; bính âm: Qīng shī;,Hán Việt: thanh sư) là hình thức múa lân liên quan đến tỉnh Phúc Kiến và người nói tiếng Phúc Kiến. Nó tương tự như múa lân miền nam Trung Quốc, ngoại trừ việc sư tử chủ yếu có màu xanh lá cây và có mặt nạ tròn tròn khác biệt. Nó được cho là bắt nguồn từ các phong trào chống Mãn Châu sau khi nhà Minh sụp đổ năm 1644. Từ “sư tử xanh” trong ngôn ngữ Phúc Kiến nghe có vẻ giống với “quân Thanh” (师). Trong các buổi huấn luyện cho máy bay chiến đấu, sư tử xanh được gắn lưỡi kiếm tượng trưng cho quân đội Mãn Châu và sẽ trở thành mục tiêu di chuyển cho các thực tập sinh. Chuyện kể rằng sau khi triều đại nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912, chuyên gia võ thuật ông Can Đức Nguyên (giản thể: 德德源; phồn thể: 幹德源; bính âm: Gàn dé yuán) đã tổ chức một buổi biểu diễn tại Tuyền Châu nơi sư tử xanh bị phế truất để đại diện cho sự lật đổ của triều đại nhà Thanh. Từ thời điểm đó trở đi, sư tử xanh được sử dụng mà không cần lưỡi kiếm và được thực hiện cho mục đích văn hóa và nghi lễ.

Sư tử Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

” Phụng Lân ” – Tranh dân gian Đông HồCó một điệu nhảy sư tử ở Nước Ta và Trung Quốc vào Lễ hội trung thu. Ở Bắc Nước Ta Nước Ta và Trung Quốc thường được gọi là bậc thầy khiêu vũ mặc dầu sư tử không có sừng. Tuy nhiên, những ghi chú của chữ Nôm trên những bức tranh ” Cốc Cốc Lan ” trong dòng Tranh Đông Hồ đã được ghi là ” Phụng Lan ” ( chữ Nôm : 奉麟 ). Hầu hết sư tử ở Nước Ta giống với sư tử miền Nam – chúng là một phần của truyền thống lịch sử sư tử miền Nam Trung Quốc nhưng đã có được đặc thù địa phương. Tuy nhiên, cũng có những hình thức địa phương độc lạ đáng kể về ngoại hình và hiệu suất, ví dụ điển hình như múa lân của những dân tộc thiểu số Tay và Nung. Một phiên bản của điệu nhảy đã được trình diễn tại Nhà hát Duyên Thị Thị trong lòng hoàng cung hoàng gia ở Huế. Loại múa lân này thường tương quan đến những cặp ; màu vàng cho nam và màu xanh cho nữ. Điệu nhảy thường dựa trên quy trình giao phối, sinh và vòng đời của kỳ lân .Điệu múa được triển khai đa phần tại những liên hoan truyền thống cuội nguồn như Tết Nguyên đán và Tết Trung thu, cũng như trong những dịp khác như mở bán khai trương một doanh nghiệp mới, sinh nhật và đám cưới. Điệu nhảy thường đi kèm với những võ sĩ và nhào lộn. Một đặc thù của điệu nhảy kỳ lân Nước Ta là bạn nhảy của ông Địa hay linh hồn của toàn cầu, được miêu tả là một người đàn ông bụng to, cười toe toét cầm một chiếc quạt lá giống như ‘ Phật ‘ ( 佛 ) của Trung Quốc. Tinh thần tốt bụng, theo tín ngưỡng phổ cập, có sức mạnh để triệu tập kỳ lân tốt đẹp, và do đó trong khi nhảy, đi đầu trong việc dọn đường cho con kỳ lân. Sự Open vui nhộn của Ông Địa làm tăng thêm đặc thù tiệc tùng và vui tươi của điệu nhảy. Đầu sư tử Nước Ta được làm khác nhau vì thiếu sừng. Điều này là do những đội thường chiến đấu với nhau và hiệu quả là còi bị đá liên tục. Để xử lý yếu tố này, nhiều đội tuyển Nước Ta đã nhu yếu không có sừng để khiến đối thủ cạnh tranh khó làm hỏng con sư tử hơn .

Sư tử Nhật Bản[sửa|sửa mã nguồn]

Múa sư tử ở Miyazaki, Nhật BảnNhật Bản có truyền thống cuội nguồn truyền kiếp về múa lân và điệu nhảy được gọi là sư tử vũ ( 獅子舞 ) trong tiếng Nhật. Nó được cho là đã được nhập khẩu từ Trung Quốc vào thời nhà Đường, và được tích hợp với lễ kỷ niệm ngày sinh của Đức Phật. Điệu múa sư tử tiên phong được ghi nhận tại Nhật Bản là tại lễ khánh thành Tōdai-ji ở Nara năm 752. Mặt nạ sư tử truyền kiếp nhất còn sót lại, được làm bằng gỗ paulownia với hàm dưới có khớp nối, cũng được dữ gìn và bảo vệ ở Tōdai-ji. Điệu nhảy thường được màn biểu diễn trong dịp năm mới để mang lại như mong muốn và xua đuổi tà ma, và những vũ công sư tử hoàn toàn có thể được đi cùng với những nhạc sĩ sáo và trống. Nó cũng được thực thi tại những liên hoan và lễ kỷ niệm khác. Trong một số ít màn trình diễn này, những con sư tử hoàn toàn có thể cắn vào đầu người để mang lại như mong muốn .
Một điệu nhảy sư tử Nhật Bản được trình diễn trong Sakurai, Nara bởi một người duy nhất đi cùng với nhạc công sáo và trốngMúa lân đã trọn vẹn được tiếp thu vào truyền thống lịch sử Nhật Bản. Có nhiều điệu múa sư tử khác nhau ở Nhật Bản và phong thái nhảy múa và phong cách thiết kế của sư tử hoàn toàn có thể khác nhau theo vùng – người ta tin rằng có đến 9.000 biến thể của điệu nhảy sống sót ở nước này. Múa lân cũng được sử dụng trong những tiệc tùng Shinto tôn giáo như một phần của một mô hình thẩm mỹ và nghệ thuật màn biểu diễn được gọi là kagura. Shishi kagura hoàn toàn có thể được tìm thấy ở những dạng khác nhau – ví dụ như daikagura hầu hết là nhào lộn, yamabushi kagura, một mô hình trình diễn sân khấu được thực thi bởi những nhà khổ hạnh yamabushi, và cả ở bangaku và những người khác. Các hình thức khác nhau của điệu nhảy shishi cũng được tìm thấy ở noh, kabuki ( nơi múa lân tạo thành một nhóm những vở kịch được gọi là shakkyōmono ), và nhà hát bunraku .
Múa sư tử của đền thờ Minagi Asakura, FukuokaSư tử Nhật Bản gồm có một cái đầu bằng gỗ, sơn mài được gọi là shishi-gashira ( đầu sư tử ), thường có thân hình đặc trưng của vải nhuộm màu xanh lá cây với phong cách thiết kế màu trắng. Nó hoàn toàn có thể bị thao túng bởi một người, hoặc bởi hai hoặc nhiều người, một trong số họ thao túng cái đầu. Giống một người đàn ông thường thấy nhất ở miền đông Nhật Bản. Cũng như sư tử Trung Quốc, mẫu mã của đầu và phong cách thiết kế trên khung hình sẽ khác nhau giữa những vùng, và thậm chí còn từ trường học đến trường học. Tuy nhiên, mặt nạ nhiều lúc hoàn toàn có thể có sừng có vẻ như là một con nai ( shika ) và shishi được viết bằng những ký tự Kanji khác nhau hoàn toàn có thể có nghĩa là con thú, hươu hoặc lợn rừng, ví dụ như trong shishi-odori ( 踊 ). Trong lịch sử vẻ vang, từ shishi hoàn toàn có thể ám chỉ bất kể động vật hoang dã bốn chân hoang dã nào, và một số ít điệu nhảy với những con thú khác nhau cũng hoàn toàn có thể được gọi là shishi-mai. Điệu nhảy đôi lúc cũng hoàn toàn có thể có múa hổ ( tora ) hoặc kỳ lân ( kirin ) .

Ở Okinawa, một điệu nhảy tương tự tồn tại, mặc dù sư tử được coi là một chó đá shisa huyền thoại. Đầu, cơ thể và hành vi của shisa trong điệu nhảy khá khác so với shishi trên đất liền Nhật Bản. Thay vì nhảy theo âm thanh của sáo và trống, điệu nhảy shisa của Okinawa thường được biểu diễn theo các bài hát dân gian được chơi với đàn shamisen.

Sư tử Triều Tiên[sửa|sửa mã nguồn]

eunyul talchumMúa sư tử Triều Tiên từMúa sư tử được ghi nhận trong công tác làm việc lịch sử dân tộc Triều Tiên Tam quốc sử ký là ” toan nghê ” ( 狻猊, từ Trung Quốc cũ cho sư tử ), một trong năm bài thơ về những điệu nhảy của Tân La vương quốc được viết bởi Thôi Trí Viễn. Nó hoàn toàn có thể đã được ghi lại sớm nhất là triều đại của Vua Jinheung ( Chân Hưng ) vào thế kỷ thứ 6, trong đó một giai điệu có tựa đề ” Tài năng của Sư tử ” được sáng tác hoàn toàn có thể tương quan đến một điệu nhảy sư tử .Hai truyền thống lịch sử chính của múa lân sống sót ở Nước Hàn, saja-noreum, được thực thi như một vở kịch trừ tà ; và sajach’um được triển khai tích hợp với những bộ phim truyền hình đeo mặt nạ. Trong nhiều bộ phim truyền hình múa mặt nạ truyền thống cuội nguồn, múa lân Open như một phần của một số ít hành vi. Ví dụ về những bộ phim truyền hình này là Ŭnyul t’alch ‘ um, Pongsan t’alch ‘ um ( 봉산 탈춤 ), Suyong Yayu ( 야류 ) và T’ongyong Ogwangdae ( 오광대 ). Mặt nạ sư tử của Pongsan và Gangnyeong hoàn toàn có thể có đôi mắt và tiếng chuông có ý nghĩa khiến lũ quỷ sợ hãi khi chúng phát ra âm thanh khi sư tử vận động và di chuyển. Cũng có một lần phiên bản tòa án nhân dân của múa lân .
Sư tử của Bukcheong sajanoreumMúa lân như một nghi thức trừ tà mở màn được triển khai vào năm mới ở Nước Hàn trong triều đại Cao Ly. Nổi tiếng nhất trong những điệu nhảy sư tử saja-noreum của Nước Hàn là Bukcheong sajanoreum hoặc mặt nạ sư tử từ Bukcheong. Trong điệu nhảy sư tử này, sư tử với mặt nạ sư tử lớn nhưng vui nhộn và phục trang màu nâu hoàn toàn có thể được màn biểu diễn cùng với những người trình diễn đeo mặt nạ khác. Các vũ công hoàn toàn có thể đi cùng với những nhạc sĩ chơi trống hai đầu, trống hình đồng hồ đeo tay cát, chiêng lớn và sáo trúc sáu lỗ .Điệu nhảy bắt đầu được thực thi vào mỗi đêm trong mười lăm đêm tiên phong của Tết Nguyên đán, nơi đoàn múa trong mặt nạ sư tử và phục trang đến thăm mọi ngôi nhà trong những ngôi làng của vùng Bukcheong, và múa lân có ý nghĩa xua đuổi tà ma và lôi cuốn chúc suôn sẻ cho năm tới. Đôi mắt của mặt nạ sư tử hoàn toàn có thể được sơn vàng để xua đuổi những linh hồn xấu đi. Người ta cũng tin rằng những đứa trẻ ngồi trên sống lưng sư tử trong những buổi màn biểu diễn như vậy sẽ có sức khỏe thể chất tốt và đời sống lâu bền hơn .

Sư tử Tây Tạng[sửa|sửa mã nguồn]

Múa sư tử Tây Tạng ở Bodhgaya, Ấn ĐộỞ khu vực Hy Mã Lạp Sơn và Tây Tạng, cũng có một điệu nhảy sư tử được gọi là múa lân tuyết. Điệu nhảy này hoàn toàn có thể được tìm thấy ở Tây Tạng và cả trong hội đồng người di cư Tây Tạng nơi nó được gọi là Senggeh Garcham, Nepal, và một phần của Đông Bắc Ấn Độ – trong số những người Monpa ở Arunachal Pradesh, ở Sikkim, nơi nó được gọi là Singhi Chham, và ở 1 số ít vùng của Uttar Pradesh và Ladakh. Tên seng ge và những hình thức tương quan của nó đến từ tiếng Phạn siṅha, và cham là một điệu nhảy nghi lễ của đạo Phật. Sư tử tuyết có bộ lông màu trắng và ở Tây Tạng, nó cũng hoàn toàn có thể có bờm xanh hoặc rìa xanh, trong khi ở Sikkim, bờm hoàn toàn có thể có màu xanh .Các sư tử tuyết được coi là một hình tượng của Tây Tạng và múa sư tử tuyết là một điệu nhảy phổ cập trong hội đồng Tây Tạng và nó được thực thi trong những tiệc tùng như trong điệu múa nghi lễ ( liên hoan cham ) và năm mới. Sư tử tuyết đại diện thay mặt cho những dãy núi tuyết và sông băng của Tây Tạng và được coi là rất tốt đẹp, và nó cũng hoàn toàn có thể tượng trưng cho một số ít đặc thù, ví dụ điển hình như sức mạnh và lòng tự tôn, không sợ hãi và niềm vui. Sư tử tuyết hoàn toàn có thể có lịch sử dân tộc truyền kiếp ở Tây Tạng, nhưng một số ít phiên bản địa phương của điệu nhảy cũng hoàn toàn có thể bị ảnh hưởng tác động bởi Vũ điệu sư tử Trung Quốc ở vùng biên giới Trung-Tây Tạng – ví dụ, nó đã ghi lại rằng thủ lĩnh địa phương ở Songpan, Tứ Xuyên đã Tặng Ngay một bộ phục trang sư tử cho Jamyang Zhépa II của vùng Amdo trong thế kỷ 18. Điệu múa sư tử tuyết hoàn toàn có thể được trình diễn như một điệu nhảy thế tục, hoặc là một điệu nhảy nghi lễ được triển khai bởi những nhà sư bon po .
Múa sư tử Barong ở Bali, IndonesiaMúa lân Trung Quốc được gọi là barongsai ở Indonesia, thường được người Hoa ở Indonesia trình diễn trong thời hạn Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, người Indonesia đã tăng trưởng phong thái múa lân của riêng họ. Múa lân ( tiếng Indonesia : barong ) ở Indonesia có những hình thức độc lạ với văn hóa truyền thống địa phương ở Indonesia, và không biết những thứ này có tương quan gì đến sư tử Trung Quốc hay không. Những điệu múa sư tử nổi tiếng nhất được màn biểu diễn ở Bali và Java. Trong văn hóa truyền thống của người Hindu theo đạo Hindu, Barong là vua của những linh hồn tốt và là quân địch của nữ hoàng quỷ Rangda. Giống như sư tử Trung Quốc, nó yên cầu nhiều vũ công hơn trong Java Reog .Các Reog nhảy của Ponorogo trong Java gồm có một con sư tử con được gọi là Barong Singa. Nó được tổ chức triển khai vào những dịp đặc biệt quan trọng như lễ kỷ niệm Lebaran ( Eid al-Fitr ), lễ kỷ niệm thành phố hoặc thành phố hay liên hoan ngày quốc khánh. Một vũ công duy nhất, hoặc warok, mang mặt nạ sư tử nặng khoảng chừng 30 – 40 kg bằng răng. Ông được ghi nhận với sức mạnh đặc biệt quan trọng. những warokcũng hoàn toàn có thể mang một cậu bé hoặc cô gái vị thành niên trên đầu của nó. Khi ôm một cậu bé hoặc cô bé vị thành niên trên đầu, vũ công Reog giữ khối lượng lên tới tổng số 100 kg. Mặt nạ tuyệt vời lê dài hơn 2,5 mét với da hổ hoặc da báo thật và lông chim công. Nó đã được quốc tế công nhận là mặt nạ lớn nhất quốc tế .

Âm nhạc và nhạc cụ[sửa|sửa mã nguồn]

Đánh trống trong buổi lễ múa lânMúa lân Trung Quốc được màn biểu diễn kèm theo âm nhạc gồm trống, chũm chọe, thanh la và cồng chiêng. Dụng cụ đồng điệu hóa với những động tác và hành vi múa lân. Fut San, Hok San, Fut Hok, Chow Gar, v.v… toàn bộ đều chơi beat khác nhau. Mỗi phong thái chơi một nhịp độc lạ. Sự tăng trưởng trong những thiết bị điện tử đã được cho phép phát nhạc qua điện thoại thông minh / máy tính bảng / máy tính / máy nghe nhạc mp3. Điều này đã góp thêm phần vào sự tăng trưởng của cách mọi người hoàn toàn có thể chơi nhạc múa lân – vô hiệu nhu yếu mang theo những nhạc cụ ( hoàn toàn có thể khá lớn ) .Phong cách thông dụng nhất là nhịp điệu sư tử Sar Ping. Điều này có hơn 22 thử nghiệm khác nhau mà bạn hoàn toàn có thể sử dụng để bộc lộ hoạt động của sư tử, trong khi sư tử Phật Sơn chỉ có khoảng chừng 7 .
Trang phục múa lân được sử dụng trong những buổi màn biểu diễn này chỉ hoàn toàn có thể được tùy chỉnh trong những shop bằng tay thủ công đặc sản nổi tiếng ở những vùng nông thôn châu Á và phải được nhập khẩu với ngân sách đáng kể cho hầu hết những vương quốc quốc tế ngoài châu Á. Đối với những nhóm ở những nước phương Tây, điều này được triển khai trải qua những quỹ được kêu gọi trải qua ĐK và cam kết được triển khai bởi những thành viên của những hiệp hội văn hóa truyền thống và kinh doanh thương mại địa phương. Đối với những vương quốc như Malaysia có dân số Trung Quốc đáng kể, trình độ địa phương hoàn toàn có thể có sẵn trong việc sản xuất phục trang và nhạc cụ ” sư tử ” mà không phải nhập chúng từ Trung Quốc. Hầu hết những phục trang múa Nam Lion tân tiến đều đi kèm với một bộ quần tương thích, tuy nhiên 1 số ít học viên sử dụng quần kung fu đen để Open truyền thống cuội nguồn hơn. Trang phục múa lân văn minh được làm rất bền và 1 số ít không thấm nước .

Thương Hội múa lân và võ thuật[sửa|sửa mã nguồn]

Múa lân Trung Quốc có quan hệ mật thiết với kungfu hoặc võ thuật ( 武術 ) và những vũ công thường là thành viên võ thuật của câu lạc bộ hoặc trường kungfu địa phương. Họ rèn luyện trong câu lạc bộ của họ và 1 số ít huấn luyện và đào tạo siêng năng để thành thạo kiến thức và kỹ năng là một trong những môn võ thuật. Nhìn chung, người ta thấy rằng nếu một trường học có một đoàn kịch có năng lực với nhiều ” sư tử “, thì điều đó chứng tỏ sự thành công xuất sắc của trường. Nó cũng thường được rèn luyện cùng với múa rồng ở 1 số ít khu vực .

Trình diễn múa lân[sửa|sửa mã nguồn]

Lân và Ông Địa tại Hội Tết Little Saigon, năm trướcLân chỉ sản xuất cái đầu thật công phu, còn mình là vải thêu, viền rất khéo. Có loại lân đặc biệt quan trọng, nửa giống lân, nửa giống rồng, nhưng ít Open trong những buổi diễn .Đám múa lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Đầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có trống thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân và quan trọng nhất không hề thiếu đó là ông Địa. Thường đội lân đánh trống vang xóm và nhà nào có treo thưởng thì đội lân sẽ đến múa chúc vui, tiền thưởng thường treo trên cao, có khi buộc trên cành tre cao, đội lân sẽ đôn người lên cho lân há miệng ngoạm lấy ( có khi làm thang là một cột thép dựng đứng để lân leo ). Thường phần thưởng càng lớn thì treo càng cao, đội lân càng có nghề càng thích phần thưởng treo cao, xem như một thử thách những đội lân khác, đồng thời qua đó chứng tỏ tài nghệ của đội để lôi cuốn những gia chủ khác. Nhưng trong nhà có người già thì phần thưởng lại được treo thấp dù có giá trị cao, chắc tránh cho lân gặp phải nguy khốn xem như gia chủ để phước. Ông địa phải vào nhà vái chào người già, gia chủ, sau đến giỡn chơi hoặc làm hề cho trẻ nhỏ vui, nếu gia chủ tỏ ý muốn mời thì đoàn lân sẽ vào, sau khi lân ngậm được tiền, lân gục gặc đầu cảm tạ thì ông địa lại vái chào cảm ơn gia chủ trước khi đoàn lân qua nhà khác .Có nhiều kiểu múa lân .

  • Độc chiếm ngao đầu” – Một con lân biểu diễn, thể hiện tài tả xung hữu đột, tiến thoái nhịp nhàng, bộ pháp hùng dũng, nhảy cao, trèo giỏi, tượng trưng cho cái uy, cái dũng của một mãnh tướng, một hảo hán, một vị anh hùng.
  • Song hỉ” – Hai con lân cùng biểu diễn, thể hiện niềm hân hoan khoan khoái, tâm đầu ý hợp như loan với phụng, như vợ với chồng, như đất trời và âm dương tương hợp.
  • Tam Tinh” – Ba con lân hợp múa với ba màu vàng, đỏ, đen, thể hiện những điều cầu nguyện của mọi người đạt được điều lành, ba điều tốt là Phúc, Lộc, Thọ.
  • Tam Anh” – Ba con lân cùng múa, diễn tả Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi vừa hùng dũng, vừa có chí lớn, vừa thương yêu, gắn bó với nhau hơn cả anh em ruột thịt cho đến chết.
  • Tứ Quý hưng long” – Bốn con lân cùng múa, gồm bốn đầu lân trắng, vàng, đỏ, đen (hoặc xanh), tượng trưng cho bốn mùa, bốn phương, bốn hiện tượng trong trời đất, diễn tả sự sung mãn, trường thọ, mạnh khỏe và hạnh phúc.

Múa sư tử thì khác múa lân, người múa núp kín thân mình trong bụng sư tử giả và sư tử thì không có sừng. Một tiết mục múa sư của người Hoa gồm 4 người : 2 người múa, 1 người đánh trống, 1 người cầm quả cầu. Trống trong múa Sư được đánh theo nhịp khác với múa Lân, người ta gọi nhịp trống trong múa Sư là nhịp trống Bắc Kinh .

Múa lân trong những dịp lễ[sửa|sửa mã nguồn]

Rau cải được cung ứng cho một con sư tử và ông Địa khi mở màn múa lân trong liên hoan năm mới của người Hoa ở thành phố Tàu của BostonTrong dịp Tết Nguyên đán, những đoàn múa lân sẽ đến thăm những ngôi nhà và shop của hội đồng châu Á để thực thi phong tục truyền thống lịch sử ” cai qing ” ( 採青 ), nghĩa đen là ” nhổ cỏ xanh “, theo đó, sư tử cắm cây xà lách xanh tốt đẹp hoặc treo trên cột hoặc đặt trên bàn trước mặt phẳng. ” Rau xanh ” ( qing ) được gắn với nhau bằng một ” phong bì đỏ ” chứa tiền và cũng hoàn toàn có thể gồm có trái cây tốt đẹp như cam. Trong tiếng Trung i ( 採, nhổ ) cũng nghe giống như thiết lập ( 菜, nghĩa là rau ) và cái ( 财, có nghĩa là vận may ). ” Sư tử ” sẽ nhảy và tiếp cận ” phong bì xanh ” và ” phong bì đỏ ” như một con mèo tò mò, để ” ăn xanh ” và ” nhổ ” nó ra nhưng giữ ” phong bì đỏ ” là phần thưởng cho đoàn sư tử. Múa lân được cho là mang lại suôn sẻ và tài lộc cho doanh nghiệp. Trong triều đại nhà Thanh, hoàn toàn có thể có thêm những ý nghĩa ẩn giấu trong những buổi trình diễn, ví dụ như những loại rau xanh ( qing ) mà sư tử ăn hoàn toàn có thể đại diện thay mặt cho Qing Manchus. Trong điệu nhảy sư tử Hok San văn minh, họ sẽ sử dụng một trong nhiều bài kiểm tra để tiếp cận thức ăn, mỗi bài có một nhịp và hoạt động đơn cử .
Sờ đầu lân lấy hênCác loại rau, trái cây, thực phẩm hoặc dụng cụ khác nhau với ý nghĩa tượng trưng tốt và tốt ; ví dụ như dứa, bưởi, chuối, cam, măng, dừa, bia, nồi đất sét hoặc thậm chí còn cua hoàn toàn có thể được sử dụng để ” nhổ ” tạo ra khó khăn vất vả và thử thách khác nhau cho điệu nhảy sư tử người màn biểu diễn. Nhưng những khó khăn vất vả của thử thách sẽ đi kèm với phần thưởng lớn hơn của ” phong bì đỏ ” được trao .Vào thời thời xưa, rau diếp được treo 5 tầng 6 m ( 162020 ft ) trên mặt đất và chỉ có một võ sĩ được đào tạo và giảng dạy tốt mới hoàn toàn có thể kiếm được tiền trong khi nhảy với một cái đầu sư tử nặng. Những sự kiện này đã trở thành một thử thách công cộng. Một khoản tiền lớn đã được thưởng, và người theo dõi mong đợi một chương trình hay. Đôi khi, nếu sư tử từ nhiều phe phái võ thuật tiếp cận rau diếp cùng một lúc, sư tử có trách nhiệm chiến đấu để quyết định hành động người thắng lợi. Những con sư tử đã phải chiến đấu với những động tác sư tử cách điệu thay vì phong thái chiến đấu trên đường phố hỗn loạn. Khán giả sẽ nhìn nhận chất lượng của những trường võ thuật theo cách những con sư tử chiến đấu. Vì khét tiếng của những trường học bị rình rập đe dọa, những trận đánh thường kinh hoàng nhưng văn minh. Con sư tử chiến thắng sau đó sẽ sử dụng những chiêu thức phát minh sáng tạo và kỹ năng và kiến thức võ thuật để đạt được phần thưởng cao. Một số sư tử hoàn toàn có thể nhảy trên sàn tre và một số ít hoàn toàn có thể giẫm lên kim tự tháp của con người được hình thành bởi những sinh viên của trường. Những người trình diễn và những trường học sẽ nhận được sự khen ngợi và tôn trọng trên phần thưởng tiền tệ lớn khi họ làm tốt. Các đoàn múa sư tử nhiều lúc được đi kèm với những nhân vật khác nhau như ông Địa .Trong những năm 1950 – 1960, tại 1 số ít khu vực có dân số cao của hội đồng người Hoa và châu Á, đặc biệt quan trọng là thành phố Tàu ở nhiều quốc tế ở Trung QuốcTrên quốc tế, những người tham gia những đoàn múa sư tử là ” giống như gangster ” và có rất nhiều đại chiến giữa những đoàn múa sư tử và những phe phái kung fu. Cha mẹ sợ không cho con tham gia những đoàn múa sư tử vì link ” xã hội đen ” với những thành viên. Trong những tiệc tùng và màn biểu diễn, khi những đoàn múa sư tử gặp nhau, hoàn toàn có thể có những trận đánh nhau giữa những nhóm. Một số thang máy và thủ pháp nhào lộn được phong cách thiết kế để sư tử ” chiến đấu ” và hạ gục những con sư tử đối thủ cạnh tranh khác. Những người màn biểu diễn thậm chí còn còn giấu dao găm trong giày và quần áo của họ, hoàn toàn có thể dùng để làm bị thương chân của những vũ công sư tử khác, hoặc thậm chí còn gắn một chiếc sừng sắt kẽm kim loại trên trán sư tử của họ, hoàn toàn có thể dùng để chém những con sư tử khác. Bạo lực trở nên cực đoan đến mức có lúc chính quyền sở tại Hồng Kông cấm trọn vẹn múa lân. Hiện nay, cũng như nhiều vương quốc khác, những đoàn múa lân phải đạt được giấy phép từ cơ quan chính phủ để thực thi múa lân. Mặc dù vẫn có một mức độ cạnh tranh đối đầu nhất định, những đoàn kịch ít đấm đá bạo lực và hung hăng hơn rất nhiều. Ngày nay, bất kể khi nào những đội gặp nhau, họ sẽ bắt tay nhau qua miệng sư tử để bộc lộ ý thức thể thao .Trong một màn trình diễn truyền thống cuội nguồn, khi sư tử nhảy vào một ngôi làng hoặc thị xã, thứ nhất nó phải tỏ lòng tôn kính tại ngôi đền địa phương, sau đó đến tổ tiên ở hội trường tổ tiên, và ở đầu cuối qua đường để mang lại niềm hạnh phúc cho toàn bộ mọi người người dân .

Tiến hóa và cạnh tranh đối đầu[sửa|sửa mã nguồn]

Lân lên mai hoa thungMúa lân đã lan rộng trên toàn quốc tế do sự hiện hữu trên toàn quốc tế của hội đồng người hội đồng người Hoa và người định cư di dân tại nhiều vương quốc trong châu Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Úc, Thái Bình Dương Polynesia, và đặc biệt quan trọng, trong khu vực Khu vực Đông Nam Á, nơi có một sự hiện hữu lớn của nền văn hóa truyền thống Trung Quốc ở quốc tế .Điệu nhảy đã tăng trưởng đáng kể từ những ngày đầu khi nó được màn biểu diễn như một phần kiến thức và kỹ năng của võ thuật Trung Quốc, và đã tăng trưởng thành một thẩm mỹ và nghệ thuật nghệ thuật và thẩm mỹ hơn và một môn thể thao nữa có tính đến bộc lộ của sư tử và những hoạt động tự nhiên, cũng như sự tăng trưởng của nhiều hơn phong thái nhào lộn công phu và kỹ năng và kiến thức trong khi màn biểu diễn. Sự tăng trưởng và tăng trưởng này đã tạo ra hình thức múa lân văn minh, và những cuộc thi được tổ chức triển khai để tìm ra những màn trình diễn múa lân tốt nhất. Giải vô địch múa lân quốc tế được tổ chức triển khai ở nhiều vương quốc nơi người dân Trung Quốc sinh sống, như ở Malaysia, Nước Singapore, Hồng Kông và Đài Loan .Cuộc thi hoàn toàn có thể được thực thi trên một loạt những bục tròn nhỏ được nâng lên trên những cột gọi là ” [ hoa mai ] ” và có tổng số 21 hoặc thậm chí còn 22 cực trong bộ truyền thống cuội nguồn. Chúng hoàn toàn có thể đạt tới 3 mét cho chiều cao thông thường, nhưng cột vô địch hoàn toàn có thể đạt tới 6 mét. Các cực hoàn toàn có thể được thêm vào với những đạo cụ hoặc chướng ngại vật, ví dụ điển hình như một cây cầu gỗ nhỏ hoàn toàn có thể thuận tiện bị gãy làm đôi, hoặc một cặp dây hoàn toàn có thể đi qua. Chiếc ‘ hoa mai ‘ tiên phong được sản xuất được ra mắt vào năm 1983 cho một cuộc thi ở Malaysia, được làm từ gỗ với một đế cao su đặc tròn nhỏ ở trên và một cái kẹp sắt ở phía dưới, với tổng số 5 cực trong bộ bắt đầu được gọi là ” Ba Lan Hua cực ” hoặc ” Ba Lan hoa mận “, có độ cao 33 inch và chiều rộng 8 inch .Sau đó, 16 hoặc thậm chí còn 17 cực đã được thêm vào trong bộ, nhưng tổng thể 21 hoặc thậm chí còn 22 cực cao hơn 85,11 inch và rộng hơn 6 inch, và được làm bằng sắt sửa chữa thay thế. Cuộc thi được nhìn nhận dựa trên kỹ năng và kiến thức và sự sôi động của ” sư tử ” cùng với việc tạo ra những pha nguy hại và những bước nhảy, cũng như sự khó khăn vất vả của những màn nhào lộn và nhịp điệu của âm nhạc. công cụ uyển chuyển và uyển chuyển hoàn toàn có thể điệu đàng người theo dõi và giám khảo. của cuộc thi. Mẫu nhìn nhận chính được tăng trưởng bởi Liên đoàn múa rồng và sư tử quốc tế, ghi được tổng số 10 điểm. Phiếu tự nhìn nhận của họ được sử dụng trong nhiều cuộc thi chuyên nghiệp gồm có Genting, Malaysia, được tổ chức triển khai gần đây tại Arena of Stars kể từ khi nó được mở vào năm 1998 .Giải vô địch sư tử rồng quốc tế và vương quốc Genting được tổ chức triển khai hai năm một lần tại Malaysia. Đến năm 2001 và 2002, những đội múa rồng cũng tham gia vào những cuộc thi tại Genting. Một sự kiện tranh tài nổi tiếng khác được tổ chức triển khai tại Malaysia là Giải vô địch múa rồng và sư tử quốc tế Tang Long tại sân hoạt động trong nhà Putra, Kuala Lumpur, Malaysia năm 2002. Nó cũng có sự tham gia của cả hai đội múa lân Bắc và Nam Lion, nhưng những đội múa rồng cũng. Ngoài ra còn có một sự kiện cạnh tranh đối đầu nổi tiếng khác được tổ chức triển khai tại Nước Singapore, được gọi là Giải vô địch khiêu vũ sư tử vương quốc Ngee Ann, được tổ chức triển khai hàng năm, tại Ngee Ann City, Đường Orchard, Nước Singapore, mà cuộc thi được đặt theo tên .

Vấn đề chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Múa lân được coi là một phần đại diện thay mặt của văn hóa truyền thống Trung Quốc tại nhiều hội đồng người Hoa ở quốc tế, và ở 1 số ít nước Khu vực Đông Nam Á, đã có những nỗ lực cấm hoặc không khuyến khích khiêu vũ nhằm mục đích đàn áp truyền thống văn hóa truyền thống Trung Quốc tại những vương quốc đó. Ví dụ, ở Malaysia, múa lân đã bị một chính trị gia Malay chỉ trích vào những năm 1970 vì không theo phong thái Malaysia và cho rằng nó được đổi thành múa hổ, và nó đã bị cấm ngoại trừ vào Tết Nguyên đán cho đến năm 1990. Múa sư tử đã trở thành một yếu tố của cuộc tranh luận chính trị và hội đồng về văn hóa truyền thống dân tộc bản địa của quốc gia. Trong SuhartoThời đại ở Indonesia, bộc lộ công khai minh bạch của văn hóa truyền thống Trung Quốc cũng bị cấm và lễ rước barongsai ( múa lân ) được coi là ” khiêu khích ” và ” cạnh tranh đối đầu với chủ nghĩa dân tộc bản địa Indonesia “. Tuy nhiên, lệnh cấm này đã bị đảo ngược sau sự sụp đổ của chính sách Suharto năm 1998, tuy nhiên việc đôi lúc cấm múa lân ở địa phương vẫn xảy ra .

Trong văn hóa truyền thống đại chúng[sửa|sửa mã nguồn]

Trong những năm 1960 và 1970, trong thời kỳ mà những bộ phim võ thuật và cổ xưa Trung Quốc của Hồng Kông rất thông dụng, những bộ phim kung fu trong đó có loạt phim của Lý Liên Kiệt đóng thực sự đã gián tiếp chiếu và chỉ ra cách múa sư tử được triển khai với kung fu thân thiện quan hệ và kung fu trong thời hạn đó. Vào thời đó, múa sư tử hầu hết được rèn luyện và trình diễn như những kiến thức và kỹ năng Wushu hoặc kung fu, với thử thách cho ‘ sư tử ‘ được kiến thiết xây dựng bằng ghế và bàn xếp chồng lên nhau để ‘ sư tử ‘ thực thi những pha nguy hại và thực thi thử thách của mình .

Một số bộ phim của thập niên 1990, bao gồm phiên bản làm lại của Hoàng Phi Hồng, và các phần tiếp theo của Hoàng Phi Hồng, liên quan đến cốt truyện tập trung vào múa lân, đặc biệt là loạt phim điện ảnh về Hoàng Phi Hồng phần 3 và 4. Diễn viên chính của sê-ri là Lý Liên Kiệt, đã từng đóng vai một vũ công sư tử trong một số bộ phim của ông, bao gồm múa sư tử phương Bắc ở loạt phim Thiếu Lâm tiểu tử và múa lân theo phong cách phương Nam trong phim Hoàng Phi Hồng phần 3 và 4 được ghi hình ở Trung Quốc và Mỹ.

Múa lân cũng đã Open trong những video âm nhạc nổi tiếng, ví dụ điển hình như nhóm nhạc hip hop Trung Quốc, video âm nhạc Lower Brothers cho đĩa đơn ” Open It Up “, video âm nhạc ” If I Had You ” của Adam Lambert và video âm nhạc ” Dusk Till Dawn ” của Zayn Malik. Điệu nhảy truyền thống cuội nguồn tựa như cũng Open trong một video âm nhạc ” True To Your Heart ” của 98 Độ với Stevie Wonder, được sử dụng để quảng cáo cho bộ phim hoạt hình năm 1998 của Disney là Hoa Mộc Lan hay loạt phim Kungfu Panda của DreamWorks .

Việt Nam cũng có những bài thơ hay bài hát thiếu nhi liên quan đến múa lân như Múa lân của Diệp Minh Tuyền hay Y Vân, Đêm Trung thu của Phạm Tuyên,… Dịp Trung thu, trẻ em thường mua đầu lân (sư tử) loại nhỏ để phá cỗ trông trăng; tại các cửa hàng hay làng nghề làm đồ chơi Trung thu truyền thống và nhất là ở khu phố Hoa Sài Gòn hay phố Hàng Mã ở Hà Nội hàng năm vẫn bán đầu lân (sư tử) và mặt nạ ông Địa mà trẻ em đều ưa thích.

Múa rồng Múa rồng

Múa rồng (giản thể: 舞龙; phồn thể: 舞龍; bính âm: wǔ lóng; Hán Việt: vũ long) là một hình thức múa và biểu diễn truyền thống trong văn hóa Trung Quốc. Giống như múa lân, nó thường được thấy trong các lễ hội. Điệu nhảy được thực hiện bởi một nhóm các vũ công giàu kinh nghiệm, người điều khiển một hình rồng dài linh hoạt bằng cách sử dụng các cột được đặt ở các khoảng đều đặn dọc theo chiều dài của con rồng. Nhóm nhảy mô phỏng các chuyển động tưởng tượng của linh hồn dòng sông này một cách uốn lượn, nhấp nhô.
Múa rồng thường được biểu diễn trong dịp tết. Rồng Trung Quốc là một biểu tượng của văn hóa Trung Quốc, và chúng được cho là mang lại may mắn cho mọi người, do đó, rồng càng ở trong điệu nhảy, nó sẽ càng mang lại nhiều may mắn cho cộng đồng. Những con rồng được cho là sở hữu những phẩm chất bao gồm sức mạnh to lớn, nhân phẩm, khả năng sinh sản, trí tuệ và điềm lành. Sự xuất hiện của một con rồng vừa đáng sợ vừa táo bạo nhưng nó có một ý nghĩa nhân từ, và nó là một biểu tượng để đại diện cho uy quyền của đế quốc. Các phong trào trong một buổi biểu diễn truyền thống tượng trưng cho vai trò lịch sử của những con rồng thể hiện sức mạnh và phẩm giá.

Múa rồng của người Hoa xuất hiện muộn hơn múa lân. Trước khi có điệu múa rồng còn có điệu múa loan hoàng và phượng hoàng nhưng ít phổ biến bằng (loan là mái, phượng là trống). Lúc đầu múa Rồng chỉ xuất hiện trong tết Nguyên Tiêu và các dịp lễ hội sau vụ thu hoạch mùa thu. Múa Rồng xuất hiện trong người Hoa ở Việt Nam vào khoảng những năm 1944-1945 do ông Trần Bồi, một chủ cơ sở sản xuất xà bông Trung Nam ở Sa Đéc, vốn là nguồn gốc Phước Châu (Phúc Kiến), nơi được coi là cái nôi của nghệ thuật múa rồng, tổ chức đội múa từ các thanh niên công nhân trong xưởng của ông. Múa rồng có rất nhiều điệu khác nhau, người ta cho rằng có đến hơn 30 điệu. Rồng được chia thành ba loại: * Rồng tơ được chế tạo bằng vải gắn chặt vào sào tre để múa, * Rồng tròn được làm bằng giấy cứng, có bụng tròn và dài, * Rồng cứng chỉ dùng để rước, khiêng, chứ không để biểu diễn. Múa lân hoặc Sư chỉ cần hai người, nhưng múa Rồng thì phải có nhiều người tập rất công phu để thể hiện được các động tác đồng bộ khi rồng uốn khúc, rồng phóng tới, rồng đảo lại. Múa rồng cần ít nhất 6 người, hoặc nhiều cũng đến 20-30 người cùng điều khiển con rồng phô diễn thần oai. Bây giờ sào tre gắn dưới thân rồng ít khi sử dụng mà thay vào đó người ta xài bằng gậy inox.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh[sửa|sửa mã nguồn]

Ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều đội múa lân sư rồng, gồm có những đội nổi tiếng lâu năm như : Phúc Kiến, Nhơn Nghĩa ( người Quảng Đông ), Ninh Giang ( người Hẹ ), v.v. Người Quảng Đông sở trường múa lân còn gọi là Nam Sư ; người Triều Châu sở trường múa sư còn gọi là Bắc Sư ; người Phúc Kiến sở trường múa rồng. Và còn nhiều hội quán lân sư rồng ở những Q., huyện khác. Hoạt động lân sư rồng được duy trì và tăng trưởng đều đặn hằng năm .Các đoàn lân – sư – rồng ở TP HCM ở phố người Hoa chuyên trình diễn trong những dịp lễ Tết vô cùng nổi tiếng và được biết nhiều nhất là Hằng Anh Đường .

Rate this post

Bài viết liên quan