Rắn ráo trâu – Wikipedia tiếng Việt

Rắn ráo trâu hay rắn long thừa, rắn hổ hèo, rắn hổ dện (vện), rắn hổ trâu (danh pháp hai phần: Ptyas mucosa) là một loài rắn thuộc họ Rắn nước. Tổng chiều dài điển hình của cá thể trưởng thành khoảng 1,5 đến 1,95 m (4 ft 11 in đến 6 ft 5 in) dù mẫu vật có chiều dài vượt 2 m (6 ft 7 in) không phổ biến lắm. Chiều dài kỷ lục của loài này đã được ghi nhận là 3,7 m (12 ft 2 in), chỉ xếp thứ nhì sau một loài cùng chi Ptyas carinata trong số các loài rắn nước được biết đến.[3][4] Dù có kích thước lớn, rắn ráo trâu thường có thân khá mảnh với mẫu vật dài 2 m (6 ft 7 in) thường có đường kính chỉ 4 đến 6 cm (1,6 đến 2,4 in).[5] Cân nặng trung bình của cá thể bắt được ở Java khoảng 877 đến 940 g (1,933 đến 2,072 lb), dù cá thể đực lớn hơn dài trên 2,3 m (7 ft 7 in) (cá thể lớn hơn trung bình một chút trong số hai giới trong loài) có thể dễ dàng vượt quá 2,5 kg (5,5 lb).[3][6] Màu sắc của chúng thay đổi từ nâu nhạt ở các vùng khô hạn đến gần đen ở các vùng rừng ẩm. Rắn ráo trâu là sinh vật ban ngày, vừa sinh sống trên cây lẫn dưới đất, không độc và di chuyển nhanh. Chúng ăn nhiều loại con mồi và thường được tìm thấy ở các khu vực đô thị nơi loài gặm nhấm phát triển mạnh.

Loài rắn này hoàn toàn có thể dài tới 2 m. Màu của nó biến thiên từ nâu nhạt ở những vùng khô tới gần như đen ở những khu rừng khí ẩm. Nói chung nó hay được tìm thấy ở khu vực ven đô thị, nơi số lượng những loài gặm nhấm khá phong phú và đa dạng. Nó hoạt động giải trí về ban ngày, không độc và vận động và di chuyển nhanh .

Loài này phân bố ở Afghanistan, Bangladesh, Campuchia, Trung Quốc (Chiết Giang, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam, Quảng Tây, Vân Nam, Tây Tạng, Hồng Kông), Ấn Độ, Sri Lanka, Indonesia (Sumatra, Java), Iran, Lào, Tây Malaysia, Nepal, Myanma, Pakistan (khu vực Sindh), Đài Loan, Thái Lan, Turkmenistan, Việt Nam.

Rắn ráo trâu trưởng thành không có thiên địch tự nhiên nào ngoài loài rắn hổ mang chúa có phạm vi phân bố chồng lấn với chúng. Rắn ráo trâu non bị săn bắt bởi chim săn mồi, những loài bò sát lớn hơn và động vật hoang dã có vú cỡ trung bình. Chúng cẩn trọng, phản ứng nhanh và chuyển dời nhanh. [ 7 ]Loài này và những loài trong chi bị con người săn lùng ráo riết ở 1 số ít khu vực thuộc khoanh vùng phạm vi của chúng để lấy da và thịt. Có những pháp luật về săn bắt và kinh doanh sống sót ở Trung Quốc và Indonesia, nhưng những lao lý này thường bị làm ngơ. [ 8 ]

Danh pháp đồng nghĩa tương quan[sửa|sửa mã nguồn]

  • Coluber blumenbachii – Merrem, 1820
  • Coluber dhumna – Cantor, 1839
  • Coluber mucosus — Lazell, 1998
  • Coryphodon blumenbachii – Duméril & Bibron, 1854
  • Leptophis trifrenatus – Hallowell, 1861
  • Natrix mucosa — Laurenti, 1768
  • Ptyas blumenbachii — Fitzinger, 1843
  • Ptyas mucosa — David & Das, 2004
  • Ptyas mucosus — Sharma, 2004
  • Ptyas mucosus — Cox et al., 1998
  • Ptyas mucosus — Günther, 1864
  • Ptyas mucosus — Manthey & Grossmann, 1997
  • Ptyas mucosus — Pinou & Dowling, 2000
  • Ptyas mucosus — Smith, 1943
  • Ptyas mucosus — Stejneger, 1907
  • Ptyas mucosus maximus Deraniyagala, 1955
  • Zamenis mucosus – Boulenger, 1890
  • Zamenis mucosus — Boulenger, 1893
  • Zaocys mucosus — Wall, 1921
  • Günther A. 1898 Notes on Indian snakes in captivity. Ann. Mag. Nat. Hist. (7) 1: 30
  • Lazell J. D. 1998 Morphology and the status thuộc chi snake “Ptyas”. Herpetological Review 29 (3): 134
  • Nixon A. M. A. & Bhupathy S., 2001 Notes on the occurrence of Dhaman (Ptyas mucosus) in the higher altitudes of Nilgiris, Tây Ghats. Cobra, (44):30-31

5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan