Họ Mèo – Wikipedia tiếng Việt

Banner-backlink-danaseo

Họ Mèo (Felidae) là một họ động vật có vú trong Bộ Ăn thịt (Carnivora). Các thành viên trong họ này thông thường được gọi là “mèo”. Thuật ngữ “mèo” vừa có thể chỉ về các loài trong họ này nói chung, và vừa có thể chỉ về loài mèo nhà (Felis catus) nói riêng.

Những họ hàng gần khác của Họ Mèo nằm trong các họ khác, trong nhánh của chúng, thuộc cây tiến hóa của động vật hoang dã ăn thịt : cầy hương, linh cẩu và cầy mangut. Những loài mèo tiên phong đã tách ra từ thời kỳ thuộc thế Eocen, khoảng chừng 40 triệu năm trước. Con vật thường thì nhất là mèo nhà, đã gắn với đời sống của con người khoảng chừng từ 7.000 đến 4.000 năm trước. Họ hàng hoang dã của chúng vẫn còn sinh sống ở châu Phi và Tây Á, mặc dầu sự hủy hoại môi trường tự nhiên sống đã thu nhỏ khu vực sinh sống của chúng .Các thành viên của Họ Mèo gồm các loài mèo lớn được biết nhiều đến như sư tử, hổ, báo hoa mai, báo đốm và báo săn ( mặc dầu chúng có size lớn, nhưng vẫn là hậu duệ của những loài mèo nhỏ đã sống sót trước đây ), và các loài mèo nhỏ hơn và ít được biết đến hơn như linh miêu tai đen, mèo gấm Ocelot, mèo cá, mèo rừng, và các loài khác .

Hiện có 42 loài mèo đã được nhận dạng (nếu xem loài mèo Iriomote là phân loài thì còn 41) trên Trái đất đều có cùng tổ tiên.[1] Các loài mèo có nguồn gốc ở châu Á và sau đó lan rộng đến các lục địa khác qua đường cầu đất. Thí nghiệm về DNA ty thể và DNA hạt nhân hé lộ rằng các loài mèo tổ tiên đã tiến hóa thành 8 dòng chính phân tán qua ít nhất 10 lần di cư (theo cả hai hướng) từ lục địa sang lục địa qua cầu đất Bering và eo đất Panama, với chi Panthera là cổ nhất và chi Felis là trẻ nhất. Có khoảng 60% các loài mèo hiện đại được ước tính đã phát triển trong một triệu năm qua.[3]

Các quan hệ họ hàng gần nhất của họ Mèo được cho là cầy Linsang. [ 4 ] Cùng với Viverridae, Linh cẩu, Họ Cầy lỏn, và cầy Madagascar, chúng tạo thành cận bộ Feliformia. [ 5 ]Hầu hết các loài mèo có cùng một dị dạng di truyền ngăn chúng nếm vị ngọt. [ 6 ]Hầu hết các loài mèo có 1 số ít đơn bội là 18 hoặc 19. Các loài mèo Tân thế giới ( phân bổ ở Trung và Nam Mỹ ) có số đơn bội là 18, hoàn toàn có thể do sự phối hợp của hai nhiễm sắc thể nhỏ hơn thành một nhiễm sắc thể lớn hơn. [ 7 ] Trước phát hiện này, các nhà sinh vật học đã không hề thiết lập cây phân nhánh họ Mèo từ các hóa thạch do các hóa thạch của các loài mèo khác nhau toàn bộ đều trông giống nhau chỉ khác nhau về size .Mèo nhà hoàn toàn có thể có đuôi dài hoặc ngắn. Có lúc các nhà sinh vật học phải xem liệu đuôi ngắn cũng hoàn toàn có thể được tìm thấy ở nhóm linh cẩu có đặc thù của tổ tiên hoặc có nguồn gốc tiến hóa. Nếu không xem xét hóa thạch, các nhà nghiên cứu đã hoàn toàn có thể nhận dạng các trạng thái đặc thù được tìm thấy trong các nhóm của chúng. Do tổng thể động vật hoang dã trong nhóm cùng cấp họ mèo là Viverridae có đuôi dài, nên các nhà khoa học hoàn toàn có thể suy ra rằng trạng thái nhận dạng này đại diện thay mặt cho tính trạng tổ tiên của chúng. [ 5 ]

Đặc điểm chung[sửa|sửa mã nguồn]

Các loài động vật hoang dã họ mèo có đặc thù chung là thú ăn thịt sống trên cạn, chúng có 1 số ít đặc thù phân biệt với các loài thú ăn thịt khác, biểu lộ ở răng, nanh, móng vuốt và năng lực săn đêm trải qua đặc thù của mắt, chúng là các loài có cấu trúc khung hình uyển chuyển và thích hợp với kế hoạch săn mồi mai phục, đây cũng là các loài nổi tiếng tinh ranh và có ý thức chủ quyền lãnh thổ cao, sự tò mò và hầu hết là các loài động vật hoang dã sống đơn độc ( trừ sư tử ) .

Theo truyền thống, người ta chia họ Felidae thành 5 phân họ, dựa theo các đặc trưng kiểu hình. Các phân họ này bao gồm 3 phân họ còn sinh tồn là Felinae, Pantherinae, Acinonychinae (báo săn), và 2 phân họ tuyệt chủng là Machairodontinae, Proailurinae[2].

Phân loại di truyền học[sửa|sửa mã nguồn]

Nghiên cứu di truyền học đã phân phối cơ sở cho sự phân loại đúng chuẩn hơn so với các thành viên còn sống sót của họ mèo dựa trên cơ sở gộp nhóm kiểu gen [ 1 ] [ 8 ] [ 9 ]. Cụ thể 8 dòng dõi di truyền đã được nhận dạng : [ 10 ]

  • Dòng dõi 1: Panthera, Uncia, Neofelis
  • Dòng dõi 2: Pardofelis, Catopuma
  • Dòng dõi 3: Leptailurus, Caracal, Profelis
  • Dòng dõi 4: Leopardus
  • Dòng dõi 5: Lynx
  • Dòng dõi 6: Puma, Acinonyx
  • Dòng dõi 7: Prionailurus, Otocolobus
  • Dòng dõi 8: Felis

Bốn dòng dõi sau ( 5, 6, 7, 8 ) có quan hệ họ hàng gần với nhau hơn so với bất kể mối quan hệ nào của chúng so với bốn dòng dõi tiên phong ( 1, 2, 3, 4 ), và vì vậy chúng tạo thành một nhánh trong phạm vi phân họ Felinae của họ Felidae .

Các loài còn sống sót[sửa|sửa mã nguồn]

Hóa thạch mèo[sửa|sửa mã nguồn]

Những loài thú giống mèo cổ nhất (Aelurogale, Eofelis) được tách ra từ thời kỳ Eocene. Được biết đến như là Proailurus, chúng đã sống trong kỷ Oligocene và Miocene. Trong kỷ Miocene nó tiến hóa thành Pseudaelurus. Pseudaelurus được coi là tổ tiên chung gần nhất của cả ba phân họ trên đây cũng như của các phân họ khác, như Machairodontinae. Nhóm này, được biết đến như là mèo răng kiếm, đã tuyệt chủng trong đầu kỷ Pleistocene. Nó bao gồm các chi Smilodon, Machairodus, DinofelisHomotherium.

Trong văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

Felidae cũng là tiêu đề của tiểu thuyết của Akif Pirinçci trong đó con mèo có tên là Francis điều tra kẻ giết một số mèo trong một thành phố lớn. Hiện tại có 5 tập của Felidae: Felidae, Felidae II (còn gọi là Felidae trên đường), Cave Canem, Das DuellSalve Roma, trong đó có hai tập đầu đã dịch sang tiếng Anh. Tập đầu Felidae đã được chuyển thể thành phim hoạt hình của Đức năm 1994, do Michael Schaack đạo diễn. Có bản lồng tiếng Anh, tuy nhiên vì nội dung người lớn của nó, nên đã không được nhập khẩu cho khán giả Bắc Mỹ, do họ có thể nhầm nó là phim cho trẻ em.

Tham khảo chung[sửa|sửa mã nguồn]

  • Shoemaker, Alan (1996). “1996 Taxonomic and Legal Status of the Felidae”. Felid Taxonomic Advisory Group of the American Zoo and Aquarium Association .

  • Turner A. (1997). The big cats and their fossil relatives. Nhà in Đại học Columbia. ISBN 0-231-10229-1.
  • Kirby G. (1984). “Cat family”. Trong Macdonald D. (biên tập). The Encyclopedia of Mammals. Facts on File. ISBN 0-87196-871-1.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan