English Mastiff (Chó ngao Anh)
English Mastiff, thường gọi tắt là Mastiff, chính là giống chó ngao nổi tiếng và là nguyên gốc lai tạo của nhiều giống chó to lớn trong danh sách mà ta đã gặp ở bên trên. Trong tiếng Anh, có rất nhiều giống chó của các nước khác có tên quốc gia đi kèm Mastiff, nhưng nếu chỉ nói là Mastiff không thì đó chính là giống chó English Mastiff của Anh. Có nhiều giả thuyết về tổ tiên của giống chó này, nhưng phổ biến nhất, đó là giả thuyết về một giống chó Molosser đã tuyệt chủng, có nguồn gốc từ khu vực Trung Đông và Tây Tạng. Khi Marco Polo đến Tây Tạng, ông mô tả có một giống chó to lớn như con lừa, tiếng sủa rền vang như sư tử. Bởi vậy, rất có thể giống chó Molosser đã tuyệt chủng này là tổ tiên của giống chó English Mastiff và Tibetan Mastiff đã nhắc đến ở trên.
Những chú chó Molosser này đã đến Châu Âu vào thời La Mã, được các tướng lãnh La Mã đem theo ra trận, làm võ sĩ giác đấu hay sử dụng trong các cuộc đấu chó, hoặc chó đấu với sư tử, hổ, gấu… Khác với Great Dane nặng vì cao và xương, English Mastiff lại nặng vì chúng to béo và những cơ bắp săn chắc. Chúng là giống chó to béo, mặt xệ, luôn nhỏ nước rãi nhưng kỳ thực lại rất thông minh, nhanh nhẹn. Tại Mỹ và Anh, English Mastiff thường được lực lượng cảnh sát, quân đội sử dụng. Cùng với chó Berger của Đức, English Mastiff chính là một trong hai giống chó tinh nhuệ nhất, được các lực lượng cảnh sát, quân đội ưa chuộng sử dụng. Với cân nặng trung bình lên đến khoảng 68 – 113 kg, chắc chắn English Mastiff là giống chó to lớn nhất trong số các giống chó khổng lồ trên thế giới.
English Mastiff (Chó ngao Anh)
Bạn đang đọc: 10 giống chó to lớn nhất thế giới có thể bạn muốn biết
English Mastiff (Chó ngao Anh)
St. Bernard (Chó cứu hộ Thụy Sĩ)
St. Bernard có tên đầy đủ là Saint Bernard, là một giống chó khổng lồ sinh ra tại vùng núi Western Alps, nơi giao nhau của ba quốc gia Ý, Thụy Sĩ và Pháp. St. Bernard là giống chó lai giữa giống chó bản địa của Thụy Sĩ với chó ngao khi những người Roman đi xâm lược dãy Alps vào thế kỷ II đầu công nguyên. Ban đầu, St. Bernard được nuôi chủ yếu với mục đích cứu hộ, đặc biệt là cứu hộ trên những địa hình núi cao và băng giá. St. Bernard đặc biệt nổi tiếng với hình ảnh một chú chó cứu hộ khổng lồ, trên cổ đeo bình rượu mạnh (dùng để hồi sức và làm ấm cơ thể cho các nạn nhân) trên những vùng núi lạnh giá, tuyết phủ. Saint Bernard là một giống chó khá cổ xưa cách đây khoảng 1000 năm, chúng có nguồn gốc từ vùng dãy núi Alpes nối liền giữa Ý và Thuỵ Sĩ, đây là kết quả giao phối giữa giống chó ngao Tây Tạng, các loài chó bản địa của Thuỵ Sĩ với giống Great Dane và chó núi Pyrenees. Loài chó Saint Bernard được sử dụng để bảo vệ các căn cứ quân sự, giúp truy tìm người bị mất tích và bị thương. Khi chiến sự biên giới kết thúc, loài chó này bắt đầu được nuôi tại các nông trại để thồ hàng, bảo vệ kho hàng, chăn cừu và gia súc, chúng cũng được các tu sĩ nuôi tại những tu viện để bảo vệ và cứu nạn trong những trận lở tuyết.
Giống chó Saint Bernard trở nên nổi tiếng trên thế giới vào giữa thế kỉ 17 khi tham gia cứu hộ trong vụ lở tuyết gần Hospice và đã cứu sống hơn 2000 người tại trận thảm họa này. Loài chó khổng lồ thường đeo trên cổ một bình rượu mạnh dùng để hồi sức và chống lạnh cho các nạn nhân bị tuyết vùi. Chúng có khả năng đánh hơi giúp chúng dễ dàng tìm kiếm những người mất tích dù họ có bị vùi dưới tuyết, chúng còn có khả năng cảnh báo bão và lở tuyết. Ngày nay, giống chó St. Bernard vẫn được dùng chủ yếu cho mục đích cứu hộ tại những vùng núi cao, lạnh giá, băng tuyết nhưng bên cạnh đó, chúng còn được dùng để trông nom trang trại và theo chân những tu sĩ đi tới các trại tế bần. Với tính cách thông minh, dũng cảm, thân thiện, hòa đồng và đặc biệt là rất yêu trẻ con, những chú chó St. Bernard được những gia đình ở Mỹ nuôi để cho chúng chơi đùa cùng với con cái mình. Về điểm này, St. Bernard rất giống với giống chó lai từ chúng, đó là Newfoundland. Với kích cỡ khổng lồ của mình, St. Bernard nặng trung bình từ 60 – 110 kg, là một trong những giống chó to lớn nhất thế giới.
St. Bernard (Chó cứu hộ Thụy Sĩ)
St. Bernard (Chó cứu hộ Thụy Sĩ)
Giant Alaskan Malamute (Chó Alaska khổng lồ)
Chó Alaska Giant vốn đã mang kích thước cực kỳ to lớn, thuộc hàng “khổng lồ” so với loài chó. Trung bình chúng có thể cao tới 80cm và nặng trên 50kg. Ở một số chú chó khỏe mạnh, chiều cao cực đại của chúng có thể đạt ngưỡng tối đa 1m và nặng tới 80kg. Alaska Giant có khuôn ngực nở rộng và 4 chân to lớn với cơ bắp săn chắc, thuận lợi cho việc di chuyển trong thời tiết khắc nghiệt như mưa tuyết. Tuy nhiên, do điều kiện lai giống ở mỗi vùng khác nhau nên khi phát triển các giống chó Alaska sẽ mang nhiều kích thước khác nhau. Trong khi những chú chó Alaska Giant được lai tạo ở những nước hàn đới như châu Âu – Mỹ có thể phát triển cao to đạt đến mức 1m, thì những chú chó tương tự ở vùng nhiệt đới sẽ thường có kích thước nhỏ hơn hẳn. Đồng thời, lông của những chú chó Alaska tại vùng nhiệt đới cũng sẽ không xù như những chú chú cùng loại nuôi ở vùng hàn đới.
Giant Alaskan Malamute là một dòng chó đặc biệt trong giống chó Alaskan Malamute, hay còn gọi là Mally. Mally có nguồn gốc xa xưa từ những chú chó Siberian Husky, khi những chú chó Husky theo những người Nga di cư sang Alaska, giao phối với giống chó sói Eskimo nơi này. Sau này, khi Alaska thuộc về Mỹ thì Mally cũng được công nhận như một giống chó Mỹ. Ở Alaska, giống chó Mally thường được dùng để kéo xe, chúng có tính cách trầm tĩnh, thông minh, hiền hòa và đặc biệt là rất hòa thuận với những vật nuôi khác và không bao giờ tấn công mèo. Mally, về cơ bản nhìn rất giống với Husky nhưng nếu để ý thì vẫn thấy nhiều điểm khác biệt, ví dụ như Mally thường nhìn to lớn hơn, khuôn mặt “ngầu” hơn, ít tinh nghịch hơn Husky. Mally chia ra làm những dòng nhỏ hơn, tùy theo kích cỡ của chúng, đó là nhỏ, trung bình và lớn, cá biệt có khổng lồ.
Giant Alaskan Malamute (Chó Alaska khổng lồ)
Giant Alaskan Malamute (Chó Alaska khổng lồ)
Great Dane (Chó ngao Đức)
Giống chó Great Dane bắt đầu được nuôi phổ biến vào những năm cuối của những năm 1600 ở Đức với mục đích bảo vệ và giữ nhà. Cho đến những năm cuối của những năm 1800, giống chó kiểng này vẫn tiếp tục được lai với nhiều giống khác nhau để tạo ra giống chó Great Dane khổng lồ như ngày nay. Chó Great Dane được xem là giống chó có nguồn gốc cổ xưa nhất. Dựa vào nhiều bằng chứng để lại, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng thời gian xuất hiện của loài chó này là từ 5000 – 7000 năm trước công nguyên. Đến nay, con người vẫn chưa tìm ra nguồn gốc tổ tiên của giống chó này. Chỉ biết rằng ở thế kỷ 19 Great Dane đã được người Đức lai tạo từ giống chó Ngao Đan Mạch. Sau đó, giống chó Great Dane được người Assyria mang đến châu Âu qua những cuộc xâm chiếm. Người ta cho rằng giống chó Ngao của Anh và giống chó Greyhound chính là cụ tổ của Great Dane.
Great Dane là một giống chó ngao ở Đức, được xem như là giống chó cao nhất thế giới với kỷ lục Guinness ghi được thuộc về một chú chó Great Dane tên là Zeus có chiều cao lên đến 110 cm. Great Dane là một chú chó hiền lành, bởi vậy rất được những gia đình ưa chuộng làm thú nuôi trong nhà. Trong lịch sử, Great Dane được xem như là con cháu của một loài chó săn Hy Lạp cổ, đã du mục đến Đức theo những người lái buôn vào thời La Mã và sau khi sinh đẻ với giống chó bản xứ đã sinh ra giống chó này. Dù không thực sự to béo nhưng với chiều cao của mình, Great Dane có cân nặng trung bình rơi vào khoảng 59 – 90 kg, xếp trong danh sách những giống chó to lớn nhất thế giới. Mặc dù cân nặng của chúng nặng tối đa gần 100kg nhưng cơ thể của chúng lại rất gọn gàng, săn chắc và cơ bắp rất phát triển. Phần thân và chiều cao của chó Great Dane rất cân đối nhưng phần đầu của chúng lại hơi nhỏ so với thân hình.
Great Dane (Chó ngao Đức)
Great Dane (Chó ngao Đức)
Leonberger (Chó sư tử Đức)
Chó Leonberger là một giống chó có kích thước khổng lồ. Tên của giống chó này được cho là có nguồn gốc từ thành phố Leonberg ở Baden-Württemberg, Đức. Theo truyền thuyết, Leonberger có ngoại hình là một “giống chó biểu tượng”, có thể đóng giả sư tử trong chỏm núi của thị trấn. Nó nằm trong Nhóm chó làm việc trong các chương trình chó như Crufts, nhưng không phải tại World Dog Show. Một loạt các màu lông được chấp nhận, bao gồm tất cả các kết hợp của màu vàng sư tử, đỏ, đỏ nâu và màu cát. Da mũi, miếng đệm chân và môi chúng thường có màu đen. Các màu được xem là “lỗi” bao gồm màu nâu với da mũi nâu, đen và nâu, đen, trắng hoặc bạc và mắt không có màu nâu. Một mảng lông có diện tích nhỏ có màu trắng trên ngực hoặc ngón chân được cho phép. Tính cách được nhắc đến đầu tiên và quan trọng nhất của giống chó Leonberge đó là nó là một giống chó gia đình, tính khí của giống chó này là một trong những đặc điểm quan trọng và có tính phân biệt cao nhất giữa nó với các giống chó khác. Được tương tác và huấn luyện, Leonberger tự tin, không nhạy cảm với tiếng ồn, phục tùng các thành viên trong gia đình, thân thiện với trẻ em, tỏ ra bình tĩnh với người qua đường và tự vào khuôn phép kỷ luật khi được yêu cầu bảo gia đình hoặc tài sản. Mạnh mẽ, trung thành, thông minh, vui tươi và làm hài lòng chủ.
Leonberger là một giống chó to lớn ở Đức, còn gọi là “chó sư tử Đức”. Đây là một giống chó sinh sôi tại những vùng núi, được mệnh danh là giống chó khỏe nhất trong những giống chó Đức. Leonberger có nguồn gốc là một giống chó lai giữa Newfoundland, St. Bernard và Great Pyrenees, do nhà lai tạo Heinrich Essing thực hiện vào thế kỷ 18 nhằm tạo ra một giống chó gần giống với sư tử. Giống chó Leonberger trở thành một biểu tượng chó cảnh của giới quý tộc Châu Âu, từng được nhiều nhân vật Hoàng gia nuôi như vua Napoleon II của Pháp, hoàng hậu Elizabeth của Áo, hoàng đế Umberto của Italia… Leonberger được gọi là “chó sư tử” vì chúng có thân hình gần giống sư tử, với thể hình to lớn, những bắp thịt săn chắc, dũng mãnh. Bên cạnh tính cách dũng mãnh, Leonberger còn rất thân thiện và tình cảm, thông minh và trung thành. Với cân nặng trung bình rơi vào khoảng 59 – 79 kg, Leonberger là một trong những giống chó to lớn nhất thế giới.
Leonberger (Chó sư tử Đức)
Leonberger (Chó sư tử Đức)
Tibetan Mastiff (Chó ngao Tây Tạng)
Chó ngao Tây Tạng hay còn gọi là Ngao Tạng, là một giống chó Ngao được người Tây Tạng nuôi và huấn luyện để bảo vệ gia súc và bảo vệ cuộc sống của những người dân bản địa trên vùng núi Himalaya khỏi những con thú hoang như chó sói, hổ, gấu và để canh gác các tu viện ở Tây Tạng. Chúng có tính cách như trung thành, lỳ lợm, đặc biệt chỉ nghe lời một chủ. Chó ngao Tây Tạng được cho là Chúa tể của thảo nguyên và được mô tả là To hơn chó sói, mạnh hơn báo hoa và nhanh hơn hươu nai. Có khả năng chó ngao Tây Tạng là tổ tiên của một số giống chó ngao ngày nay. Chó ngao Tây Tạng có kích thước khá đồ sộ. Cao ít nhất 70 cm đối với chó đực. Nặng khoảng từ 64 – 90 kg. Lông: Với bộ lông 2 lớp, lớp lông ngoài mềm và dài còn lớp lông trong bông như len. nó có thể thích nghi với mọi thời tiết khắc nghiệt nhất. Chó ngao Tây Tạng có phần lông ở cổ đặc trưng trông như bờm sư tử. Màu: đen, đen – nâu, đen – vàng, xám hoặc vàng. Đuôi: luôn cuộn cao trên lưng. Đầu: phẳng, không có nếp nhăn. Hình thế cân đối và oai vệ. Tấn công lì lợm, trung thành, đặc biệt chỉ nghe chủ, chỉ trung thành tuyệt đối với 1 chủ nhân duy nhất. Chó ngao Tây Tạng cũng trưởng thành rất chậm. Con cái từ 3 – 4 năm mới bắt đầu chu kì sinh sản, còn con đực cũng từ 3 – 5 năm mới phát dục và có khả năng giao phối.
Xem thêm: “>Tập làm văn: Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật trang 128 SGK Tiếng Việt 4 tập 2>
Các nhà khoa học cho rằng đây chính là giống chó săn tinh khôn nhất hiện nay, từng bị giới động vật học hiện đại cho là đã tuyệt chủng. Loài chó này đã hiện hữu cách đây 5000 năm và được xem như là giống chó có bộ Gen cổ xưa nhất trên thế giới hiện nay. Loài chó Tibetan Mastiff này được tình cờ phát hiện bởi hai nhà thám hiểm người Ý khi đến làng Jhangihe ở Tây Tạng vào thế kỷ XV. Thực tế thì giống chó này đã được người bản địa thuần hóa từ xa xưa, nhưng vào thế kỷ XV chúng mới trở nên nổi tiếng. Các nhà thám hiểm thường mang Tibetan Mastiff về nước như một món quà quý giá cho Hoàng gia. Năm 1820, vua Anh George IV được tặng 1 con, vua William IV sau đó được tặng 1 cặp và nữ hoàng Victoria cũng được tặng một con vào năm 1840. Tibetan Mastiff được biết đến như một giống chó lầm lì, ít nói nhưng cực kỳ dũng mãnh và hung tợn. Đặc biệt, đây là giống chó duy nhất trên Thế giới chỉ trung thành với chủ nhân, trừ chủ nhân ra sẽ không có ai sai bảo, động chạm được vào người chúng. Tibetan Mastiff là giống chó được giới triệu phú Trung Quốc ưa chuộng.
Tibetan Mastiff (Chó ngao Tây Tạng)
Tibetan Mastiff (Chó ngao Tây Tạng)
Newfoundland (Chó lai Newfoundland)
Chó Newfoundland là một giống chó ở vùng Canada ở Bắc Bán cầu và được sử dụng làm chó cứu hộ. Ngoài tên Newfoundland mang tính địa danh thì giống chó này có cái tên khác là New-fun-land. Đây là giống chó có kết quả lai tạo giữa giống chó sói bản địa với giống chó ngao khổng lồ, chúng giống chó khá hiền lành và mẫu mực. Đây là giống chó rất nhiều gia đình có trẻ nhỏ yêu thích, cũng như giống chó Saint Bernard, bởi vậy, nó còn có biệt danh là Saint Bernard Nước vì chúng thích nghịch với nước. Có hai loại chó gốc từ nhiều vùng ở châu Âu được các thuỷ thủ mua về nuôi ở Newfoundland. Loài nhỏ đã trở thành tổ tiên của loài Labrador Retriever, còn giống lớn hơn con Greater St. John dã tiến hoá thành giống mà ngày nay người ta gọi là chó Newfoundland. Ngày nay người ta phát hiện ra trong những loài chó Mỹ nhập khẩu sau này lại có cùng nhóm máu với loài Newfoundland. Đây là một trong những giống chó lớn nhất và ban đầu được sử dụng để làm chó cứu hộ biển Bắc. Với bộ lông xù có 2 lớp, giống chó này rất phù hợp và thích nghi với những cái lạnh ở khu vực phía Bắc bắn cầu, tuy nhiên thì cũng cần sự chăm sóc rất cẩn thận với bộ lông của chúng.
Đây là một giống chó to lớn, khỏe mạnh, có bộ lông dày. Con chó đực cao 69 – 74 cm, nặng 56 – 68 kg. Con chó cái cao 63 – 69 cm, nặng 45 – 54 kg. Cơ bắp chúng săn chắc, khỏe mạnh và có khả năng làm việc bền bỉ. Chúng có bộ lông xồm, bông xù to khiến nhìn vào thấy nó to hơn rất nhiều so với cơ thể thực. Về màu sắc, chúng có những màu nâu, đen, vàng, trắng – đen, xám và thường có khoang trắng ở ngực, bàn chân, chóp đuôi. Với bộ lông xù có hai lớp, giống chó này rất phù hợp và thích nghi với những cái lạnh ở khu vực phía Bắc bắn cầu, tuy nhiên thì cũng cần sự chăm sóc rất cẩn thận với bộ lông của chúng. Chúng cũng quan tâm chu đáo cung cấp đầy đủ dinh dưỡng trong giai đoạn đang phát triển là yếu tố quan trọng, ngoài ra cần có sự vận động hợp lý và đầy đủ cùng với những bài tập cần có trước khi kết thúc giai đoạn phát triển. Loài chó Newfoundland rất nhanh nhạy, dễ thuần phục và thích sống trong những ngôi nhà lớn. Chúng giỏi bơi lội và giữ nhà. Chỉ cần nhìn thấy hình dạng nó cũng làm cho người ta e dè, nhưng nếu bị khiêu khích, chúng sẵn sàng chứng tỏ sự dữ dằn để bênh vực cho những người thân thuộc của chúng. Giống chó này có khả năng cảm nhận rất nhạy bén, rất hòa hợp với các vật nuôi khác trong gia đình và ngay cả đối với các con chó trưởng thành khác. Hồn nhiên, thân thiện, trung thành, đáng yêu và rất dễ bảo và hiếm khi tấn công những con chó lạ.
Newfoundland (Chó lai Newfoundland)
Newfoundland (Chó lai Newfoundland)
Black Russian Terrier (Chó sục Nga đen)
Chó sục Nga đen (Black Russian Terrier) là những con chó sục cỡ vừa xuất xứ từ Nga thời Liên Xô cũ. Loài chó này mạnh mẽ và khỏe khoắn với một hệ thần kinh tốt. To lớn, khỏe mạnh, vững vàng và cảnh giác. Vào tháng 5 năm 1984 loài này được công nhận. Loài này được nuôi để trông nhà cửa. Những con Black Russian Terriers lớn hơn những con chó cỡ vừa. Con đực cao 64 – 74 cm, con cái cao 64 – 72 cm. Chênh lệch khoảng 3 cm. Sẽ nhiều hơn nếu con đực phát triển tốt. Nặng tầm 36 – 65 kg. Con đực lớn hơn và đồ sộ hơn con cái. Chiều dài của thân cân đối với chiều cao tạo nên một dáng vẻ vuông vắn. Vai nhô vượt lưng và cổ họng xiên chếnh dần xuống phía đuôi. Không nên có yếm cổ trễ đung đưa hoặc to quá mức. Bàn chân như chân gấu rất rộng với những đệm thịt dày, đen, cứng và những chiếc móng lớn cũng màu đen. Thân thể cân đối, khi nằm xuống tạo thành hình chữ nhật. Lưng thoải dần xuống mông. Chân trước thẳng khỏe. Vai rộng, săn chắc và rẩt phát triển với khung xương rộng và sâu. Khuỷu chân không được chếch vào trong hoặc ra ngoài. Bốn chân được bao phủ bởi lông thô dài từ 2 đến 4 inches (từ 5 – 10 cm). Bàn chân rẩt rộng được che phủ hoàn toàn bởi lông và với những đệm thịt lớn màu đen. Thân sau xương khỏe và cơ bắp. Bốn chân thẳng tắp.
Loài chó sục Nga đen hiếm này mạnh mẽ và khỏe khoắn với một hệ thần kinh tốt. To lớn, khỏe mạnh, vững vàng và cảnh giác. Đầu thủ vuông vắn nên được cấu tạo một cách khỏe khoắn với hộp sọ rộng và dài. Râu ria thêm vào độ vuông vắn của chiếc mõm. Mặt hơi gãy nhưng không rõ rệt. Mũi rộng, và đen tuyền. Cặp môi dày, tròn và đen ở rìa môi và cặp hàm rộng và khỏe. Miệng dày thịt và nếu không như vậy, đó sẽ là một lỗi. Hai hàm răng khít như lưỡi kéo cắt. Cặp mắt đen cỡ vừa và cách xa nhau. Vành mắt nên có màu đen và hình quả hạnh. Đôi tai hình tam giác và lúc lắc. Tai cộc không được chấp nhận. Độ dài của tai nên sát tới bên góc ngoài của mí mắt. Đôi tai có vị trí khá cao. Cổ nên dày, săn chắc và khỏe khoắn. Black Russian Terrier có dáng dấp hài hòa, khỏe khoắn và mạnh mẽ. Nó đi nhẹ trên những bàn chân. Đuôi cộc và cao. Bộ lông chống thấm nước màu đen. Những mảng màu trắng hoặc nâu đều không đáp ứng. Sự xuất hiện của những cá thể có lông xám rất được mong đợi. Bộ lông có thể rậm hoặc hơi thưa. Cấu trúc lông có phần thô tùy thuộc vào độ rậm hoặc thưa.
Black Russian Terrier (Chó sục Nga đen)
Black Russian Terrier (Chó sục Nga đen)
Chó chăn cừu Thổ Nhĩ Kỳ – Chó Kangal
Chó Kangal là một giống chó có nguồn gốc là chó săn từ thời vua Ashurbanipal của Assyrian. Chúng tên gọi khác là Sivas Kangal Dog, Chó chăn cừu Anatoli (Anatolian Shepherd Dog). Trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ chúng có tên là Karabash, được hiểu như là đầu đen. Chúng được coi như một tài sản quốc gia ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tại quận Sivas quê hương của chúng, chúng được sử dụng chính trong việc bảo vệ gia súc và được bán với giá khá cao. Dòng Kangal hiện nay tại Thổ nhĩ Kỳ có nguồn gốc là chó săn từ thời Vua Assyria Ashurbanipal. Người Herodotus mô tả chúng là giống chó to lớn, khỏe mạnh hơi giống giống chó săn của Ấn Độ được nuôi bởi người Babylon. Mặc dù như chúng có nguồn gốc từ Trung đông nhưng có ý kiến cho rằng cho rằng chúng được đưa vào Trung Đông từ vùng Trung Á bởi những dòng chó được coi như họ hàng của Kangal có xuất hiện ở Syria và Iraq. Người ta cho rằng chó Kangal được nuôi bởi người Thổ Óc-hút (Oghuz Turks) những người đã chạy trốn từ những cuộc xâm lăng của Thành Cát Tư Hãn. Chúng được mang từ Trung Á đến cao nguyên Anatolia trong thế kỷ 11. Trong thời gian này có xuất hiện rất giống chó rất giống Kangal hiện tại. Cặp chó đầu tiên xuất hiện tai Anh vào những năm 1967 là Gazi của Bakirtolloköyü và Sabahat của Hayirogluköyü. Ở Mỹ cũng bắt đầu nhập giống chó này từ những năm 1980 của thế kỷ 20.
Chó Kangal là một giống chó to lớn, khỏe mạnh và có một bộ khung xương rất vững chắc. Con đực với chiều cao 30-32 inches (77 – 86 cm) còn con cái 28 – 30 inches (72 – 77 cm). Cân nặng của con đực từ 110 – 145 pounds (50 – 66 kg) cái 90 – 120 pounds (41 – 54 kg). Do ngoại hình và kích cỡ to lớn như thế, chúng được sử dụng hiệu quả trong việc bảo vệ gia súc chống lại các loại thú ăn thịt như chó sói, gấu hay các loại chó rừng khác. Cấu trúc thân của Kangal có một số điểm nổi bật như chiều dài thân dài so với chiều cao của chúng. Chân trước của chúng bằng 1/2 chiều cao của chúng. Chó Kangal được sử dụng để bảo vệ gia súc ở Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng rất bình tĩnh, dễ kiểm soát tình thế, độc lập và có tính bảo vệ cao. Chúng có xu hướng không thích gần người lạ nhưng lại rất gần gũi với gia đình chủ, thân thiện với các thành viên khác, đặc biệt là trẻ nhỏ. Chúng không ngượng nghịu hay quá hung dữ. Một con Kangal đã qua huấn luyện sẽ rất nhạy cảm và nhanh chóng báo động với nguy hiểm trước mắt sẵn sàng tấn công nếu cần thiết. Chúng là người bảo vệ rất hiệu quả cho gia súc lẫn như gia đình nhưng với tính cách độc lập, thân hình đồ sộ, chúng không thích hợp cho những người chủ thiếu kinh nghiệm lẫn sức khỏe để kiểm soát chúng.
Chó chăn cừu Thổ Nhĩ Kỳ – Chó Kangal
Chó chăn cừu Thổ Nhĩ Kỳ – Chó Kangal
Dogue de Bordeaux (Chó ngao Pháp)
Chó ngao Pháp còn được biết đến với tên gọi Dogue de Bordeaux là một giống chó ngao có nguồn gốc từ nước Pháp, đây là giống chó có thời từng suýt tuyệt chủng vào đầu thế kỷ 20 do nạn săn bắt chúng. Sau một thời kỳ chính quyền và người dân nỗ lực nhân giống, chó ngao Pháp đã được phục hồi. Đây là một giống chó có giá cả khá đắt đối với những người chơi chó cảnh. Chúng còn là giống chó có giá cao, tại Mỹ, từng có một chú chó ngao Pháp có giá khoảng 5.000 USD và người ta thường trả 3.000 USD cho các chú chó nhỏ. Chúng có một dáng vẻ ngoại hình khá ấn tượng. Thân hình ngắn và chắc nịch. Chúng cao từ 23 – 30 inches (58 – 75 cm) và cân nặng từ 120 – 145 pounds (54 – 65 kg). Đầu chúng có kích thước lớn ngoại cỡ, rộng, nặng nề và đầy nếp nhăn, kích thước của đầu chính là cơ sở để phân loại giống chó này. Những con chó đực hạng nhất có chu vi đầu lớn khoảng 68 – 75 cm. Hàm chúng ngắn và mạnh mẽ. Chúng phải có mũi, mép và mi mắt màu đen hoặc đỏ, khác biệt hẳn với các phần lông xung quanh. Mũi hếch, lỗ mũi rộng. Phần mõm ít nhất phải chiếm khoảng 1/3 thể tích đầu. Môi trên dày và rủ xuống che khuất hàm dưới.
Chó ngao Pháp có da cổ mềm tạo thành nếp nhăn nổi bật. Tai rủ cụp. Hai chân trước thẳng, xương to. Đuôi mập thẳng thon dần về chóp và không được dài quá cẳng chân sau. Bộ lông ngắn và mềm có màu từ nâu vàng đến gụ với mảng vá màu đen hoặc đỏ. Vá trắng chỉ được cho phép xuất hiện trên ngực hoặc bàn chân. Chúng có tuổi thọ khoảng 10 – 12 năm. Hay thở khò khè và rỏ nước rãi. Đây cũng là giống chó khó nuôi và sinh sản và có số lượng con rất ít trong một lứa đẻ. Vì chó con có đầu rất to nên có khi khó đẻ và phải mổ khi đẻ đối với một số ca. Chó mẹ có bộ ngực to nên khi cho con bú thường nằm lên bụng và chúng có thể đè lên chó con. Chó mẹ khi cho bú rất hung dữ. Chúng thuộc loại rụng lông vừa phải. Chó ngao Pháp là giống chó tốt bụng và khá điềm tĩnh. Chúng rất trung thành, nhẫn nại và yêu quý gia chủ. Chúng có tính cách can đảm và sẵn sàng đương đầu với người lạ, chúng là một trong những giống chó bảo vệ tốt nhất. Có thể rất hung hãn đối với các giống chó khác. Luôn có sự kình địch giữa những con đực trong cùng giống. Mặc dù có vẻ ngoài đáng sợ nhưng chó ngao Pháp luôn tỏ ra dịu dàng với trẻ nhỏ và thành viên gia đình chủ. Có thể sống trong căn hộ nếu được chơi đùa thoải mái. Tương đối thụ động trong nhà và rất thích được chơi ngoài sân, chúng rất cần được hoạt động và vận động.
Xem thêm: Ai tìm ra vắc – xin phòng bệnh dại?
Dogue de Bordeaux (Chó ngao Pháp)
Dogue de Bordeaux (Chó ngao Pháp)
Source: https://thucanh.vn
Category: Chó cảnh