Croatia – Wikipedia tiếng Việt

Croatia (tiếng Croatia: Hrvatska: phát âm [xř̩ʋaːtskaː], phiên âm tiếng Việt hay dùng là “C’roát-chi-a” hoặc “Crô-a-ti-a”[1]), tên chính thức Cộng hòa Croatia (tiếng Croatia: Republika Hrvatska  (trợ giúp·thông tin)) là một quốc gia nằm ở ngã tư của Trung và Đông Nam Âu, giáp biển Adriatic. Thủ đô Zagreb tạo thành một trong những phân khu chính của đất nước, cùng với hai mươi quận. Croatia có diện tích 56.594 kilômét vuông (21.851 dặm vuông) và dân số năm 2019 là 4,076,246 người, hầu hết dân số là người theo Công giáo La Mã.

Người Croatia đến khu vực này vào thế kỷ thứ 6 và tổ chức triển khai nhà nước thành hai lãnh địa công tước vào thế kỷ thứ 9. Tomislav I trở thành vị vua tiên phong vào năm 925, tăng trưởng Croatia thành một vương quốc, giữ được chủ quyền lãnh thổ của nó trong gần hai thế kỷ, đạt đến cực thịnh trong thời quản lý của những vị vua Petar Krešimir IV và Zvonimir. Croatia gia nhập một liên minh cá thể với Vương quốc Hungary năm 1102. Năm 1527, phải đương đầu với cuộc xâm lược của Ottoman, Quốc hội Croatia đã bầu Ferdinand của nhà Habsburg lên ngai vàng Croatia. Trong đầu thế kỷ 19, những phần của quốc gia được chia thành Các tỉnh Illyrian của Pháp trong khi đế quốc Áo-Hung chiếm đóng Bosna và Hercegovina – một tranh chấp được xử lý theo Hiệp ước Berlin ( 1787 ). Tháng 10 năm 1918, trong những ngày sau cuối của Thế chiến thứ nhất, Nhà nước của người Slovene, Croat và Serb được xây dựng, độc lập từ Áo-Hungary, được công bố tại Zagreb, và trong tháng 12 năm 1918 nó đã được sáp nhập vào Vương quốc Nam Tư. Sau cuộc xâm lược Nam Tư vào tháng 4 năm 1941, hầu hết chủ quyền lãnh thổ Croatia được tích hợp vào nhà nước được Đức quốc xã hậu thuẫn, dẫn đến sự tăng trưởng của một trào lưu kháng chiến và tạo ra Liên bang Croatia, sau cuộc chiến tranh trở thành thành viên sáng lập và là thành viên liên bang của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nam Tư. Ngày 25 tháng 6 năm 1991, Croatia công bố độc lập, trọn vẹn có hiệu lực hiện hành vào ngày 8 tháng 10 cùng năm. Chiến tranh giành độc lập Croatia đã chiến đấu thành công xuất sắc trong bốn năm tiếp theo .Croatia là một nước cộng hòa được quản trị theo mạng lưới hệ thống nghị viện và một vương quốc tăng trưởng với mức sống rất cao. Đất nước này là một thành viên của Liên minh châu Âu ( EU ), Liên Hiệp Quốc ( UN ), Hội đồng Châu Âu, NATO, Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO ), và là thành viên sáng lập của Liên minh Địa Trung Hải. Là một thành viên tham gia tích cực trong lực lượng gìn giữ tự do của Liên Hiệp Quốc, Croatia đã góp phần quân đội cho thiên chức do NATO chỉ huy ở Afghanistan và giành một vị trí không thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ 2008 – 2009. Từ năm 2000, cơ quan chính phủ Croatia đã liên tục góp vốn đầu tư vào hạ tầng, đặc biệt quan trọng là những tuyến đường và cơ sở giao thông vận tải dọc theo hiên chạy dọc Pan-European .

Nền kinh tế của Croatia bị chi phối bởi các ngành dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp. Du lịch là một nguồn thu ngoại tệ đáng kể, Croatia được xếp hạng trong số 20 địa điểm du lịch nổi tiếng nhất trên thế giới. Nhà nước kiểm soát một phần nền kinh tế, với chi tiêu chính phủ đáng kể. Liên minh châu Âu là đối tác thương mại quan trọng nhất của Croatia. Croatia cung cấp an sinh xã hội, hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn cầu, giáo dục tiểu học và trung học miễn phí, trong khi hỗ trợ văn hóa thông qua nhiều tổ chức công và đầu tư của công ty trên truyền thông và xuất bản.

Lịch sử bắt đầu[sửa|sửa mã nguồn]

Vùng đất là Croatia thời nay đã có người ở trong suốt thời tiền sử. Các hoá thạch của người Neanderthal có niên đại từ giữa Thời kỳ đồ đá cũ đã được khai thác trong khu vực Krapina và Vindija. Những di tích lịch sử gần đây hơn ( hậu Mousterian ) của người Neanderthal đã được tìm thấy tại Mujina pećina gần bờ biển .Đầu Thời kỳ đồ đá mới, những nền văn hoá Starčevo, Vučedol và Hvar đã Open rải rác trong khu vực. Thời kỳ đồ sắt còn để lại dấu vết trong văn hoá Hallstatt ( người Illyrian thời kỳ đầu ) và văn hoá La Tène ( người Celt ) . Oton Iveković, Những người Croat đặt trên lên những bờ biển AdriaticSau đó vùng này là nơi sinh sống của người Liburnian và người Illyrian, và những thuộc địa của Hy Lạp đã được xây dựng trên hòn hòn đảo Vis ( bởi Dionysius I của Syracuse ) và Hvar. [ 2 ] Năm 9 Công Nguyên chủ quyền lãnh thổ Croatia lúc bấy giờ trở thành một phần của Đế chế La Mã. Hoàng đế Diocletian đã thiết kế xây dựng một hoàng cung to lớn tại Split nơi ông về nghỉ ngừng những hoạt động giải trí chính trị năm 305. [ 3 ] Ở thế kỷ thứ V Hoàng đế sau cuối của La Mã Julius Nepos [ 4 ] đã quản lý đế chế nhỏ của mình từ Cung điện của Diocletian trước khi ông bị giết hại năm 480. Buổi đầu lịch sử vẻ vang Croatia chấm hết với cuộc xâm lược của người Avar ở nửa đầu thế kỷ thứ VII và hủy hoại hầu hết mọi thị xã La Mã. Những người Roma sống sót rút lui kế hoạch để bảo vệ những khu vực trên bờ biển, hòn hòn đảo và những ngọn núi. Thành phố Dubrovnik tân tiến đã được kiến thiết xây dựng bởi những người sống sót đó .Người Croat đã tới vùng đất là Croatia lúc bấy giờ từ đầu thế kỷ thứ VII. Họ tổ chức triển khai thành hai lãnh địa công tước ; Lãnh địa công tước Pannonia ở phía bắc và Lãnh địa công tước Littoral Croatia ở phía nam. Hoàng đế Porphyrogenitus đã viết rằng Porga, công tước của những người Croat Dalmatia, người đã được Hoàng đế Heraclius của Byzantine mời tới Dalmatia, đã nhu yếu Heraclius những giáo viên Thiên chúa giáo. Theo nhu yếu của Heraclius, Giáo hoàng John IV ( 640 – 642 ) đã gửi những giáo viên và những nhà truyền giáo tới Tỉnh Croatia. [ 5 ] Những nhà truyền giáo đó đã cải đạo cho Porga, và nhiều người khác dưới quyền ông ta, sang đức tin Thiên chúa năm 640. Sự Thiên chúa giáo hóa người Croat phần nhiều hoàn thành xong ở thế kỷ thứ IX. Cả hai lãnh địa công tước đều trở thành chư hầu của Frankish hồi cuối thế kỷ thứ VIII, và sau cuối trở thành độc lập ở thế kỷ sau đó .

Nhà cai trị Croatia bản xứ đầu tiên được công nhận bởi Giáo hoàng là công tước Branimir, người được Giáo hoàng John VIII gọi là dux Croatorum (“công tước của người Croat”) năm 879.[6] Công tước Tomislav của Littoral Croatia là một trong những thành viên có ảnh hưởng nhất của Triều đại Trpimirović. Ông đã thống nhất người Croat tại Dalmatia và Pannonia vào một vương quốc duy nhất năm 925. Nhà nước của Tomislav trải dài từ Biển Adriatic tới sông Drava, và từ sông Raša tới sông Drina. Dưới thời cầm quyền của ông, Croatia trở thành một trong những vương quốc hùng mạnh nhất châu Âu Trung cổ.[7] Tomislav đã đánh bại các cuộc xâm lược của Arpads trên chiến trường và buộc họ phải vượt Drava. Ông cũng sáp nhập một phần của Pannonia. Nó gồm phần giữa các con sông Drava, Sava và Kupa, nên vương quốc của ông đã có biên giới chung với Bulgaria trong một khoảng thời gian. Đây là lần đầu tiên hai vương quốc Croatia được thống nhất, và toàn bộ người Croat ở trong một nhà nước. Liên minh sau này được Byzantine công nhận, và nó trao ngôi báu hoàng gia cho Stjepan Držislav[8] và ngôi báu giáo hoàng cho vua Zvonimir. Vương quốc Croatia trung cổ đạt tới đỉnh điểm phát triển trong thời cầm quyền của các vị vua Petar Krešimir IV (1058–1074) và Zvonimir (1075–1089).

Kiến trúc Croatia trung cổ, Zadar

Sau sự mất đi của triều đình cầm quyền Croatia năm 1091, Ladislaus I của Hungary, anh/em của Jelena Lijepa, nữ hoàng cuối cùng của Croatia, trở thành vua của Croatia. Giới quý tộc Croatia tại Littoral phản đối việc này, dẫn tới một cuộc chiến tranh kéo dài 10 năm và việc công nhận vị vua cai trị người Hungary Coloman là vua của Croatita và Hungary theo hiệp ước năm 1102 (thường được gọi là Pacta conventa). Đổi lại, Coloman hứa duy trì Croatia như một vương quốc riêng biệt, không đưa người Hungary vào định cư tại Croatia, để đảm bảo sự tự quản của Croatia dưới một Ban, và tôn trọng mọi quyền, luật, và những đặc quyền của Vương quốc Croatia. Trong liên minh này, Vương quốc Croatia không bao giờ mất quyền bầu vị vua của riêng mình, dù triều đình cầm quyền đã mất đi. Năm 1293 và 1403[9] Croatia đã chọn vị vua của họ, nhưng trong cả hai trường hợp Vương quốc Hungary đã tuyên chiến và liên minh được tái lập.

Trong bốn thế kỷ tiếp theo, Vương quốc Croatia nằm dưới quyền cai quản của Sabor và các Ban được vua Hungary chỉ định. Vương quốc Croatia và Slavonia vẫn là một thực thể lập hiến hầu như tách biệt về pháp luật,[10] nhưng sự xuất hiện của một vị vua Hungary đã đưa lại những hậu quả khác như: sự xuất hiện của chế độ phong kiến và sự trỗi dậy của các gia đình quý tộc địa phương như Frankopan và Šubić. Congregatio Regni tocius Sclavonie Generalis năm 1273, tài liệu cổ nhất còn lại được viết bởi nghị viện Croatia, có từ giai đoạn này.[11] Những vị vua sau đó đã tìm cách tái lập một số ảnh hưởng họ từng mất trước đây bằng cách trao một số đặc quyền cho các thị trấn.

Cuối thế kỷ XV Đế chế Ottoman chinh phục MakarskaGiai đoạn đầu của liên minh riêng giữa Croatia và Hungary chấm hết năm 1526 với Trận Mohács và sự thất bại của những lực lượng Hungary trước Đế chế Ottoman. Sau cái chết của Vua Louis II, giới quý tộc Croatia trong nghị viện Cetingrad đã lựa chọn nhà Habsburg làm những vị vua quản lý mới của Vương quốc Croatia, dưới điều kiện kèm theo rằng họ phải phân phối quân đội và kinh tế tài chính thiết yếu để bảo vệ Croatia chống lại Đế chế Ottoman. [ 11 ] [ 12 ]
Những bức tường của DubrovnikThành phố Dubrovnik được xây dựng thế kỷ thứ VII [ 13 ] sau khi những kẻ xâm lược Avar và Slavơ phá huỷ thành phố Epidaurum La Mã. Những người Roma sống sót bỏ trốn tới một hòn hòn đảo nhỏ gần bờ biển nơi họ xây dựng một khu định cơ mới. Trong thời Thập tự chinh lần thứ tư thành phố này rơi vào tầm trấn áp của Cộng hoà Venice cho tới hiệp ước Zadar năm 1358, khi Venice bị vương quốc Croato-Hungarian vượt mặt, mất quyền trấn áp Dalmatia và Cộng hoà Dubrovnik trở thành một vương quốc chư hầu. Trong suốt 450 năm tiếp theo Cộng hoà Dubrovnik tiên phong là chư hầu của Ottoman và sau đó của Triều đại Habsburg. Trong thời hạn này nước cộng hoà trở nên phong phú nhờ thương mại .Nước cộng hoà trở thành nơi xuất bản quan trọng nhất của văn học Croatia trong những tiến trình Phục hưng và Baroque. Bên cạnh những nhà thơ và những tác gia như Marin Držić và Ivan Gundulić, những người mà tác phẩm của họ đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng văn hoá Croatia, người nổi tiếng nhất Cộng hoà Dubrovnik là nhà khoa học Ruđer Josip Bošković, ông từng là một thành viên của Hội Hoàng gia và Viện hàn lâm Khoa học Nga. Nước cộng hoà sống sót tới năm 1808 khi nó bị Napoleon sáp nhập. Ngày nay thành phố Dubrovnik là một khu vực trong list Địa điểm Di sản Thế giới của UNESCO và là một khu vực du lịch nổi tiếng .

Ngay sau Trận Mohács, triều đình Habsburg đã không thành công trong việc ổn định các biên giới giữa Đế chế Ottoman và Vương quốc Croatia bằng cách lập ra một captaincy tại Bihać. Tuy nhiên, năm 1529, quân đội Ottoman đã tràn qua khu vực và chiếm Buda và phong toả Vienna; một sự kiện sẽ dẫn tới sự hỗn loạn và bạo lực tại các vùng biên giới Croatia (xem Các cuộc chiến tranh Ottoman tại châu Âu). Sau sự thất bại của những chiến dịch quân sự đầu tiên, Vương quốc Croatia bị chia thành các đơn vị quân sự và dân sự năm 1553. Các đơn vị quân sự trở thành Croatian Krajina và Slavonian Krajina và cả hai cuối cùng trở thành các phần của Biên giới Quân sự Croatia nằm trực tiếp dưới sự kiểm soát của Vienna. Những cuộc cướp phá của Ottoman vào trong lãnh thổ Croatia kéo dài tới tận Trận Sisak năm 1593, sau đó các biên giới đã trở nên ổn định trong một khoảng thời gian. Vương quốc thời kỳ ấy được gọi là Reliquiae reliquiarum olim inclyti Regni Croatiae (“Tàn tích của tàn tích của Vương quốc Croatia nổi tiếng một thời”). Một trận đánh nổi tiếng trong thời kỳ này là Trận Szigetvár, khi 2,300 binh sĩ dưới sự lãnh đạo của ban Nikola Šubić Zrinski chống cự trong hai tháng trước 100.000 lính Ottoman dưới sự chỉ huy của hoàng đế Suleiman I, chiến đấu cho đến người cuối cùng. [[Hồng y Richelieu|Hồng y Richelieu]] được thông báo là đã gọi sự kiện này là “trận đánh cứu vớt nền văn minh.”[14]

Trong cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ, Slavonia đã được giành lại nhưng vùng đồi núi phía tây Bosnia, từng là một phần của Croatia cho tới cuộc chinh phục Ottoman, vẫn ở bên ngoài quyền trấn áp của Croatia và biên giới hiện tại, nước này có hình dạng giống hình lưỡi liềm hay móng ngựa, đây là một di tích lịch sử của lịch sử dân tộc. Phần phía nam của ‘ móng ngựa ‘ được xây dựng bởi cuộc chinh phục Venetian sau cuộc Phong toả Zara và được coi là những cuộc cuộc chiến tranh thế kỷ XVII-XVIII với người Ottoman. Lý do về pháp lý ( De jure ) cho sự lan rộng ra Venetian là quyết định hành động của vua Croatia, Ladislas của Naples, bán những quyền của mình với Dalmatia cho Venice năm 1409 [ 2 ] .Trong hơn hai thế kỷ của những cuộc Chiến tranh Ottoman, Croatia đã trải qua những đổi khác nhân khẩu to lớn. Người Croat đã rời những vùng đất ven sông Gacka, Lika và Krbava, Moslavina tại Slavonia và một vùng đất ngày này ở phía tây-bắc Bosnia để đi về phía Áo nơi họ vẫn cư ngụ và thời nay người Croat Burgenland là hậu duệ trực tiếp của những người định cư đó. Để sửa chữa thay thế những người Croat đã dời đi, triều đình Habsburg lôi kéo những dân cư Chính thống giáo của Bosnia và Serbia ship hàng hoạt động giải trí quân sự chiến lược tại Croatiavà Slavonian Krajina. Người Serbia dần khởi đầu tới trong thế kỷ XVI, với đỉnh điểm là những cuộc Đại Di cư Serb năm 1690 và 1737 – 39. Các quyền hạn và nghĩa vụ và trách nhiệm của dân cư mới của biên giới quân sự chiến lược được quyết định hành động với Statuta Valachorum năm 1630. [ 15 ]

Hồi phục vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Sự phục sinh vương quốc tại Croatia khởi đầu năm 1813 khi giám mục Zagreb Maksimilijan Vrhovac ra một lời khẩn cầu cho việc sưu tập ” bảo vật vương quốc “. Đầu những năm 1830, một nhóm tác gia Croatia trẻ đã tụ tập Zagreb và xây dựng trào lưu Illyrian để thay đổi vương quốc và thống nhất mọi thực thể Nam Slavơ dưới Triều đình Habsburg. Mục tiêu lớn nhất của người Illyrian là việc xây dựng một ngôn từ tiêu chuẩn như một đối trọng với tiếng Hungary, và ủng hộ văn học Croatia và văn hoá chính thức. Các thành viên quan trọng của trào lưu này là Bá tước Janko Drašković, người khởi động trào lưu khi viết một tờ rơi năm 1832, Ljudevit Gaj người được chính phủ nước nhà hoàng gia Habsburg được cho phép in tờ báo tiên phong bằng tiếng Croatia, Antun Mihanović, người viết lời cho quốc ca Croatia, Vatroslav Lisinski, người soạn vở opera tiên phong bằng tiếng Croatia, ” Ljubav i zloba ” ( ” Tình yêu và Hiểm ác “, 1846 ), và nhiều người khác .Lo ngại tiên phong về người Hungary và sau đó là áp lực đè nén đồng hoá của triều đình Habsburg, Vương quốc Croatia đã luôn khước từ đổi khác vị thế ngôn từ chính thức của tiếng Latinh cho tới tận giữa thế kỷ XIX. Mãi tới ngày 2 tháng 5 năm 1843 tiếng Croatia lần tiên phong mới được sử dụng trong nghị viện, [ 16 ] sau cuối trở thành ngôn từ chính thức năm 1847 vì sự nổi tiếng của trào lưu Illyrian .Thậm chí với một hội đồng Slavơ ( người Croatia ) lớn, Dalmatia vẫn duy trì những hội đồng Italia lớn tại bờ biển ( tại những thành phố và hòn hòn đảo, tập trung chuyên sâu lớn nhất tại Istria ). Theo cuộc tìm hiểu dân số Áo-Hung năm 1816, 22 % dân số Dalmatian là người nói tiếng Italia. [ 17 ] Bắt đầu từ thế kỷ XIX, hầu hết người Dalmatia Italia dần bị đồng hoá vào văn hoá và ngôn từ Croatia hầu hết .

Lịch sử văn minh[sửa|sửa mã nguồn]

Câu vấn đáp của Croatia cho cuộc cách mạng Hungary năm 1848 là sự tuyên chiến. Các lực lượng Áo, Croatia và Nga cùng nhau đánh bại quân đội Hungary năm 1849 và sau 17 năm được ghi nhớ tại Croatia và Hungary như thể sự Đức hoá. Sự thất bại ở đầu cuối của chủ trương này dẫn tới Thoả hiện Áo-Hung năm 1867 và việc xây dựng một liên minh triều đình giữa Đế chế Áo và Vương quốc Hungary. Hiệp ước không xử lý câu hỏi về vị thế của Croatia. Năm sau đó nghị viện Croatia và Hungary lập ra một hiến pháp cho liên minh và Vương quốc Croatia-Slavonia và Vương quốc Hungary. [ 18 ]Sau khi Đế chế Ottoman mất quyền trấn áp quân sự chiến lược với Bosnia và Herzegovina, Áo-Hung xoá bỏ Croatian Krajina và Slavonian Krajina, Phục hồi lại những chủ quyền lãnh thổ cho Croatia năm 1881. Ở nửa sau thế kỷ XIX những đảng chính trị ủng hộ Hungary khiến người Croat chống lại người Serb với mục tiêu trấn áp nghị viện. Chính sách này thất bại năm 1906 khi một liên minh Croat-Serb thắng cử. Tình hình chính trị mới Open lê dài không biến hóa cho tới trước Thế chiến I .

Ngày 29 tháng 10 năm 1918,Sabor (nghị viện) Croatia tuyên bố độc lập,[19] lập ra Nhà nước của người Slovene, người Croat và người Serb mới. Bị quân đội Italia tràn vào từ phía nam và phía tây gây áp lực, Hội đồng quốc gia (Narodno vijeće) bắt đầu những cuộc đàm phán mưu mô với Vương quốc Serbia vào ngày 23 tháng 11 năm 1918, một phái đoàn được gửi tới Belgrade với mục tiêu tuyên bố một liên minh. Đoàn đại biểu Hội đồng quốc gia chuyển 11 điểm cần được thực hiện để tạo lập một nhà nước tương lai.[20] Quan trọng nhất trong số đó là điểm đầu tiên, nói về sự cần thiết của một hiến pháp cho nhà nước mới, một đề xuất đã được hai phần ba số đại biểu thông qua. Cuối cùng, một hiến pháp cho một nhà nước tập trung đã được thông qua với đa số 50% + 1 phiếu và dẫn tới sự chấm dứt quyền tự trị nhà nước. Ngày 1 tháng 12 năm 1918, Vương quốc của người Serb, người Croat, và Slovene mới, cũng được gọi là Vương quốc Nam Tư, được thành lập. Quyết định này đã dẫn tới sự phản đối của người Croat, và họ đã bắt đầu một quá trình chuyển dịch chính trị hướng tới sự tái lập một nhà nước có chủ quyền bằng sự lãnh đạo của Đảng Nông dân Croatia.

Brela tại Makarska riviera. Du lịch có tổ chức bắt đầu tại đây năm 1937 khi những khách sạn đầu tiên được xây dựngTình hình chính trị không lành mạnh tại Nam Tư khởi đầu xấu đi sau khi Stjepan Radić, quản trị CPP, bị giết hại trong tòa nhà nghị viện Nam Tư năm 1928 bởi cá thể cực đoan vương quốc Serbia Puniša Račić .Giai đoạn hỗn loạn sau đó chấm hết năm sau khi Vua Alexander xóa bỏ Hiến pháp, tạm đình chỉ Nghị viện và đưa ra một chính sách độc tài cá thể. Bốn năm sau đó của chính sách Nam Tư được Albert Einstein miêu tả là một ” thực trạng đấm đá bạo lực kinh điển được triển khai chống lại người Croatia “. [ 21 ] Trong thời độc tài, Vladko Maček, chỉ huy Đảng Nông dân Croatia, bị bỏ tù, và chỉ được phóng thích sau khi vua Alexander bị giết trong một thủ đoạn do trào lưu cực đoan cánh hữu Croatia, Ustaše, thực thi. Ngay khi Maček được thả, tình hình chính trị được khôi hục như trước vụ ám sát Stjepan Radić, với những nhu yếu liên tục của người Croatia về chủ quyền lãnh thổ. Vấn đề Croatia chỉ được xử lý ngày 26 tháng 8 năm 1939 bởi Thoả thuận Cvetković-Maček, khi Croatia được trao chủ quyền lãnh thổ và được lan rộng ra biên giới và Maček trở thành phó thủ tướng Nam Tư. Nền độc lập sau đó không kéo lâu dài hơn, và chấm hết với cuộc xâm lược của Đức năm 1941 .Cuộc xâm lược của Đức ngày 6 tháng 4 năm 1941 thắng lợi chỉ sau chưa tới mười ngày, chấm hết với sự đầu hàng vô điều kiện kèm theo của Quân đội Hoàng gia Nam Tư ngày 17 tháng 4. Lãnh thổ Croatia, Bosnia và Herzegovina và vùng Syrmia tại Vojvodina trở thành một nhà nước bù nhìn của Phát xít Đức [ 22 ] [ 23 ] được gọi là Nhà nước Croatia Độc lập. Istria, thành phố cảng của Rijeka, và một phần của Dalmatia tới tận Split bị Italia chiếm đóng. Baranja và Medjumurje bị Hungary chiếm. Dù Ustashe mới chỉ quay lại sau khi bị trục xuất, họ đã được trao nghĩa vụ và trách nhiệm điều khiển và tinh chỉnh chính sách mới, những kẻ chiếm đóng Phe trục khởi đầu đề xuất kiến nghị trao chức chỉ huy cho Vladko Maček, chỉ huy Đảng Nông dân Croatia ( HSS ), nhưng ông phủ nhận. Chỉ một ngày sau khi tiến vào Zagreb, ngày 17 tháng 4 năm 1941, Ante Pavelić công bố rằng mọi người đã xúc phạm hay tìm những xúc phạm chống lại nhà nước Croatia đều bị tuyên án phản bội – một tội danh sẽ bị tử hình. [ 24 ] Chế độ Ustashe đưa ra những điều luật chống Semitic kiểu Nuremberg, và cũng triển khai những cuộc thảm sát đa phần chống lại người Serb và những sắc tộc phi Croat khác, [ 25 ] cũng như xây dựng những trại tập trung như trại tập trung chuyên sâu tại Jasenovac và Stara Gradiska nơi những người chống đối chính sách Ustashe và những người ‘ gây phiền phức ‘ khác bị giam giữ. [ 26 ] Các tu sĩ Cơ đốc cũng tương quan tới trào lưu Ustashe, đặc biệt quan trọng vị Cha Miroslav Filipović nổi tiếng bị lột áo thầy tu. Tuy nhiên, những người khác như Tổng giám mục Zagreb Alojzije Stepinac không chỉ lên án những tội ác của Ustashe trong những bài giảng của mình mà còn phân phối nơi trú ngụ và bảo vệ cho những người Serb và người Do Thái bị truy đuổi. Thư viện Ảo Do Thái ước tình rằng từ 45.000 tới 52.000 người Serb Croatia bị giết hại tại Jasenovac và khoảng chừng 330,000 tới 390,000 người Serb là nạn nhân của hàng loạt chiến dịch diệt chủng. [ 27 ]Những tàn tích của Quân đội Hoàng gia Nam Tư, sau này được tổ chức triển khai lại trong Chetnik Serbia, kháng chiến chống lại sự chiếm đóng Phát xít và những kẻ cộng tác Ustashe của chúng, nhưng Chetnik Bảo hoàng Nam Tư nhanh gọn hợp tác với Phát xít Đức và Phát xít Ý. Cuộc nội chiến bùng nổ, với mọi phe phái đánh lẫn nhau. Sau này, trước ” Chiến dịch Barbarossa ” tiến công Liên Xô đầy giật mình của Hitler, một cuộc nổi dậy lớn diễn ra ngày 22 tháng 6 năm 1941 với việc tạo lập 1 st Sisak Partisan Detachment. Giới chỉ huy trào lưu du kích Nam Tư nằm trong tay Josip Broz Tito người Croat, chủ trương bạn bè và thống nhất của ông sau cuối không những chỉ vượt mặt những kẻ chiếm đóng Phe trục, mà còn nhiều kẻ cộng tác của chúng trong những lực lượng vũ trạng của Nhà nước Croatia Độc lập và những kẻ phản bội khác ( xuất hiện trong mọi nhóm vương quốc và xã hội Nam Tư ). Thắng lợi của những người du kích Nam Tư trước những kẻ chiếm đóng Phát xít và liên minh của chúng dẫn tới những cuộc thảm sát những người Croatian Domobran ( Home Guard ) và Ustashe, họ bị Quân đoàn số 8 của Anh trục xuất khỏi Áo. Trong thập kỷ sau Thế chiến II, tới 350.000 người sắc tộc Italia rời bỏ Nam Tư. [ 28 ]Số lượng nạn nhân của Thế chiến II tại Nam Tư vẫn là một nguồn gây tranh cãi lớn giữa những nhà sử học và những viện hàn lâm vương quốc Serbia và Croatia một bên và những nhà nghiên cứu độc lập một bên, đáng quan tâm nhất là Vladimir Žerjavić ( một người Croat ) và Bogoljub Kočović ( một người Serb ), và những người khác. [ 29 ]Croatia tân tiến được xây dựng trên những nguyên tắc chống phát xít AVNOJ của du kích trong thế chiến II, và nó trở thành một nước cộng hòa lập hiến của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. [ 30 ] Một chính sách chuyên chính vô sản được xây dựng, nhưng vì sự chia rẽ Tito-Stalin, tự do kinh tế tài chính và cá thể tại đây tốt hơn tại Khối Đông Âu. Từ những năm 1950, nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Croatia có quyền tự trị dưới sự quản trị của giới cộng sản tinh hoa địa phương, nhưng vào năm 1967 nhóm nhà thơ và nhà ngôn từ Croatia có ảnh hưởng tác động đã xuất bản một Tuyên ngôn về Vị thế và Tên của Ngôn ngữ Croatia Tiêu chuẩn. Sau những tiềm năng yêu nước năm 1968 tài liệu đó biến hình thành một trào lưu chung Croatia đòi những quyền thêm nữa cho Croatia, quyền dân sự lớn hơn và nhữn nhu yếu phi tập trung hoá kinh tế tài chính. Cuối cùng ban chỉ huy Nam Tư coi vụ Mùa xuân Croatia là một sự tái lập chủ nghĩa vương quốc Croatia, giản tán trào lưu như chủ nghĩa Xô vanh và bắt giữ hầu hết những chỉ huy quan trọng. Năm 1974, một hiến pháp mới của Liên bang Nam Tư được phê chuẩn trao nhiều quyền tự trị hơn cho những nước cộng hòa riêng không liên quan gì đến nhau, và vì vậy đã hoàn thành xong những tiềm năng chính của trào lưu Mùa xuân Croatia .Tình cảm vương quốc dẫn tới sự chấm hết Liên bang Nam Tư, đã lan rộng trong nhiều sắc tộc trong 1 số ít năm. Những nhu yếu của người Albani năm 1981 về Kosovo đã bị tách khỏi Serbia và chuyển thành một nước cộng hòa hợp thành bên trong Nam Tư đã dẫn tới những cuộc bạo loạn, [ 31 ] và thái độ tựa như cũng xảy ra bên trong những nhà nước khác với cuộc Bản ghi nhớ SANU của Serbia năm 1986 ; Croatia và Slovenia cũng phản ứng xấu đi năm 1989 sau khi chỉ huy Serbia Slobodan Milošević tổ chức triển khai những cuộc thay máu chính quyền tại Vojvodina, Kosovo và Montenegro để lập ra những chính quyền sở tại sẽ trung thành với chủ với những tiềm năng của ông .

Dưới ảnh hưởng của chiến dịch tuyên truyền của Slobodan Milošević, tầm quan trọng của việc ai sẽ giành thắng lợi trong cuộc bầu cử đa đảng tại Croatia trong 50 năm đã giảm bớt. Có nghĩa là, người Serb đã có ảnh hưởng với cả lãnh đạo quốc gia người Croatia Franjo Tuđman và lãnh đạo cộng sản Ivica Račan.[32] Franjo Tuđman, người giành thắng lợi trong cuộc bầu cử càng làm tình hình thêm nghiêm trọng. Người Serb ở Croatia rời nghị viện Croatia và lập ra Hiệp hội các Vùng đô thị Bắc Dalmatia và Lika tại Knin. Sau này nó trở thành Republika Srpska Krajina. Về những sự kiện xảy ra những năm 1990-92, Milan Babić, tổng thống Republika Srpska Krajina, sau này tuyên bố rằng ông đã “bị ảnh hưởng mạnh và bị dẫn dắt sai lầm bởi sự tuyên truyền của Serbia”.[33] Những sự kiện đó lên tới đỉnh điểm với cuộc Chiến tranh giành độc lập toàn lực của Croatia trong khoảng thời gian 1991 và 1995. Cuộc xung đột chấm dứt với Chiến dịch Cơn bão (được gọi trong tiếng Croatia là Oluja) vào mùa hè năm 1995. Những sự kiện của tháng 8 năm 1995 vẫn là chủ đề của nhiều vụ xét xử tại Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ, liên quan tới chiến thắng của Quân đội Croatia và việc trục xuất sắc tộc Serb [34].

Croatia được quốc tế công nhận ngày 15 tháng 1 năm 1992 bởi Liên minh châu Âu và Liên hiệp quốc. Trong thời gian đó, Croatia trấn áp chưa tới hai phần ba chủ quyền lãnh thổ theo pháp lý của mình. Quốc gia tiên phong công nhận Croatia là Iceland ngày 19 tháng 12 năm 1991. [ 35 ]
Một map Croatia cũCroatia nằm ở Trung và Đông Nam Âu, giáp với Hungary về phía đông bắc, Serbia về phía đông, Bosnia và Herzegovina ở phía đông nam, Montenegro về phía đông nam, biển Adriatic ở phía tây nam và Slovenia về phía tây bắc. Nó nằm giữa vĩ độ 42 ° và 47 ° N, kinh độ 13 ° và 20 ° E. Một phần của chủ quyền lãnh thổ ở cực nam xung quanh Dubrovnik thực tiễn là một chủ quyền lãnh thổ được bảo phủ bởi vương quốc khác, liên kết với phần còn lại của đất liền bởi lãnh hải, nhưng tách khỏi đất liền bởi một dải bờ biển ngắn thuộc Bosna và Hercegovina xung quanh Neum [ 36 ] .Lãnh thổ Croatia khoảng chừng 56.594 kilômét vuông ( 21.851 dặm vuông Anh ) ( 21.851 dặm vuông ), gồm có 56.414 kilômét vuông ( 21.782 dặm vuông Anh ) ( 21.782 dặm vuông ) đất và 128 kilômét vuông ( 49 dặm vuông Anh ) ( 49 dặm vuông ) nước. Đây là vương quốc lớn thứ 127 trên quốc tế [ 37 ]. Độ cao từ dãy núi Dãy núi Dinaric với điểm trên cao nhất là đỉnh Dinara ở độ cao 1.831 m ( 6,007 feet ) gần biên giới nước này với Bosna và Hercegovina ở phía nam [ 37 ] [ 38 ] đến bờ biển Adriatic tạo thành hàng loạt biên giới phía tây nam của nó. Croatia có hơn một ngàn hòn đảo ( kể cả hòn đảo nhỏ ) có người ở, khác nhau về kích cỡ, 48 trong số đó là hòn đảo có người sinh sống vĩnh viễn. Các hòn đảo lớn nhất là Cres và Krk, [ 37 ] mỗi trong số chúng đều có diện tích quy hoạnh khoảng chừng 405 kilômét vuông ( 156 dặm vuông Anh ) ( 156 dặm vuông ) .Phần đồi núi phía bắc Hrvatsko Zagorje và những vùng đồng bằng phẳng của Slavonia ở phía đông là một phần của lưu vực sông Pannonian, đi qua những con sông lớn như Danube, Drava, Kupa và Sava. Sông Danube, con sông dài thứ hai của châu Âu, chảy qua thành phố Vukovar ở cực đông và tạo thành một phần biên giới với Serbia. Các khu vực TT và phía nam gần bờ biển Adriatic và những hòn đảo gồm có những ngọn núi thấp và cao nguyên rừng. Tài nguyên vạn vật thiên nhiên được tìm thấy trong nước với số lượng đủ lớn cho sản xuất gồm có dầu mỏ, than, bô xít, quặng sắt, calci, thạch cao, nhựa đường tự nhiên, silic, mica, đất sét, muối và thủy điện [ 37 ] .Địa hình cat-xtơ chiếm khoảng chừng 50% Croatia và đặc biệt quan trọng điển hình nổi bật ở dãy núi Dinaric Alps [ 39 ]. Có một số ít hang động sâu ở Croatia, 49 trong số đó là những hang sâu hơn 250 m ( 820,21 ft ), 14 trong số đó sâu hơn 500 m ( 1.640,42 ft ) và sâu hơn 1.000 m ( 3.280,84 ft ). Các hồ nổi tiếng nhất của Croatia là hồ Plitvice, một mạng lưới hệ thống gồm 16 hồ, được nối với nhau bằng thác nước trên những thác đá dolomit và đá vôi. Các hồ nổi tiếng với sắc tố đặc biệt quan trọng, từ màu ngọc lam đến xanh bạc hà, xám hoặc xanh dương. [ 40 ] .

Croatia được chia thành 20 hạt (županija) và thành phố thủ đô Zagreb:

Các khu vực di sản quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

nhà nước và chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Banski dvori – toà nhà hai tầng theo kiến trúc baroque từng là nơi ở của các ban Croatia từ năm 1809 đến năm 1918Từ khi trải qua Hiến pháp năm 1990, Croatia đã trở thành một chính sách dân chủ. Từ năm 1990 đến năm 2000 họ có một mạng lưới hệ thống bán tổng thống, và từ năm 2000 họ có một mạng lưới hệ thống nghị viện .

Tổng thống của nước Cộng hoà (Predsjednik) là Nguyên thủ quốc gia, được bầu lên trực tiếp với nhiệm kỳ năm năm và bị hạn chế bởi Hiến pháp chỉ được phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ. Ngoài tư cách tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, tổng thống có trách nhiệm thủ tục chỉ định Thủ tướng với sự ưng thuận của Nghị viện, và có một số ảnh hưởng trên chính sách đối ngoại. Nơi cư ngụ chính thức của tổng thống là Predsjednički dvori. Ngoài ra, tổng thống còn có các nhà nghì trên các hòn đảo Vanga (đảo Brijuni) và đảo Hvar.

Nghị viện Croatia (Sabor) là một cơ cấu lập pháp lưỡng viện (một viện thứ hai, “Viện của các Hạt”, được lập ra theo Hiến pháp năm 1990, đã bị xoá bỏ năm 2001). Số lượng thành viên của Sabor có thể thay đổi từ 100 đến 160; tất cả họ đều được dân chúng bầu ra với nhiệm kỳ năm năm. Các phiên họp toàn thể của Sabor diễn ra từ ngày 15 tháng 1 đến 15 tháng 6 và từ 15 tháng 9 đến 15 tháng 12.

Chính phủ Croatia (Vlada) do Thủ tướng lãnh đạo, dưới thủ tướng là hai phó thủ tướng và mười bốn bộ trưởng chịu trách nhiệm về các lĩnh vực riêng biệt. Nhánh hành pháp chịu trách nhiệm đề xuất pháp luật và một ngân sách, thực hiện luật pháp, và hướng dẫn các chính sách đối nội và đối ngoại của nước cộng hoà. Trụ sở chính thức của chính phủ ở tại Banski dvori.

Croatia có mạng lưới hệ thống tư pháp ba nhánh, gồm Toà án Tối cao, những Toà án Hạt, và những Toà án Đô thị. Toà án Hiến pháp xét xử những yếu tố tương quan tới Hiến pháp. Việc thực thi pháp lý tại Croatia là nghĩa vụ và trách nhiệm của lực lượng công an Croatia, nằm dưới sự trấn áp của Bộ Nội vụ. [ 41 ] [ 42 ] Những năm gần đây, lực lượng này đang triển khai một cuộc cải cách với sự tương hỗ từ những cơ quan quốc tế, gồm Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu từ khi tổ chức triển khai này thực thi trách nhiệm tại Croatia từ ngày 18 tháng 4 năm 1996 .

Croatia có đa số dân là người Croat (89.6%), các nhóm thiểu số gồm người Serb (4.5%), người Bosnia, người Hungary, người Italia, người Slovene, người Đức, người Séc, người Romani và các nhóm khác (5.9%).[37] Trong hầu hết thế kỷ XX dân số Croatia đã tăng từ 3.430.270 năm 1931 lên 4.784.265 năm 1991.[43] Tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên hiện ở mức âm[37] với sự chuyển tiếp nhân khẩu hoàn thành trong thập niên 1970.[44] Tuổi thọ trung bình là 75.1,[37] và tỷ lệ biết chữ là 98.1%.[37] Trong những năm gần đây chính phủ gặp sức ép phải thêm 40% giới hạn giấy phép làm việc mỗi năm cho lao động người nước ngoài [3] và theo chính sách nhập cư của họ nước này đang tìm cách thu hút những người đã di cư hồi hương [4]. Các tôn giáo chính của Croatia là Cơ đốc giáo La Mã 88%, Chính thống giáo 4.4%, và các phái Thiên chúa giáo khác 0.4%, Hồi giáo 1.3%, khác và không xác định 0.9%, không theo tôn giáo 5.2%.

Trong thập kỷ sau cuối của thế kỷ XX dân số Croatia đã ngừng tăng trưởng bởi cuộc Chiến tranh giành độc lập Croatia. Trong đại chiến, nhiều nhóm dân cư đã bị chuyển chỗ ở và sự di cư tăng lên. Năm 1991, tại những vùng đa phần là người Serb, hơn 80.000 người Croat hoặc đã bị những lực lượng người Serb Croatia buộc rời bỏ nhà cửa hoặc buộc phải bỏ chạy do thực trạng đấm đá bạo lực. [ 45 ] Trong những ngày ở đầu cuối của cuộc cuộc chiến tranh năm 1995, hơn 120.000 người Serb, [ 46 ] và có lẽ rằng khoảng chừng 200.000 người [ 47 ] đã bỏ chạy trước thắng lợi của những lực lượng Croatia. Chỉ một nhóm nhỏ người Serb quay lại nhà mình từ năm 1995, theo Human Rights Watch. [ 48 ] Người Serb còn ở lại tại Croatia không sống tại những cao nguyên và vùng trong nước Dalmatia mà tại những thành phố lớn và những khu TT của Croatia. Người Serb đã bị cơ quan chính phủ Croatia cho tái định cư tại những vùng họ từng sinh sống trước kia .
Tư nhân hoá và khuynh hướng theo một nền kinh tế thị trường mở màn từ thời nhà nước Croatia mới khi cuộc cuộc chiến tranh bùng nổ năm 1991. Vì hậu quả cuộc chiến tranh, hạ tầng kinh tế tài chính bị phá hoại nghiêm trọng, đặc biệt quan trọng ngành công nghiệp du lịch mang lại nhiều doanh thu. [ 49 ] Từ năm 1989 đến năm 1993, GDP giảm 40.5 %. [ 49 ] Khi cuộc cuộc chiến tranh chấm hết năm 1995, ngành du lịch và nền kinh tế tài chính Croatia hồi sinh ở mức độ vừa phải. [ 49 ] Tuy nhiên, tham nhũng, cronyism, và sự thiếu vắng minh bạch đã cản trở ý nghĩa của cuộc cải cách kinh tế tài chính, cũng như nguồn góp vốn đầu tư quốc tế. [ 49 ]Kinh tế Croatia xoay chuyển mạnh năm 2000 khi ngành du lịch tăng trưởng trở lại. [ 49 ] Kinh tế lan rộng ra năm 2002, được kích thích bởi một sự bùng nổ tín dụng thanh toán từ những ngân hàng nhà nước mới tư nhân hoá và được bơm vốn từ quốc tế, một số ít khoản góp vốn đầu tư tư bản, đáng chú ý quan tâm nhất là kiến thiết xây dựng đường sá, càng làm du lịch tăng trưởng, và cung ứng cho những doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. [ 49 ]Croatia có một nền kinh tế thị trường có thu nhập cao. [ 50 ] Dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho thấy GDP danh nghĩa của Croatia ở mức USD 58.558 tỷ hay USD 13.199 trên đầu người, năm 2007. IMF dự báo cho năm 2008 là USD 69.332 tỷ hay USD 15.628 trên đầu người. Theo nhu cầu mua sắm tương tự, tổng GDP ở mức USD 78.665 tỷ năm 2007, tương tự với USD 17.732 trên đầu người. Năm 2008, dự báo nó sẽ ở mức USD 82.272 tỷ, hay USD 18.545 trên đầu người .Theo tài liệu của Eurostat, GDP theo nhu cầu mua sắm tương tự của Croatia ở mức 63 % mức trung bình của EU năm 2008. [ 51 ] Tăng trưởng GDP thực năm 2007 là 6.0 %. [ 52 ] Tổng lương trung bình của một người Croat trong chín tháng đầu năm 2008 là 7,161 kuna ( US USD 1,530 ) mỗi tháng [ 53 ] Năm 2007, tỷ suất thất nghiệp theo định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế ở mức 9.1 %, sau khi giảm không thay đổi từ 14.7 % năm 2002. [ 54 ] Tỷ lệ thất nghiệp được ĐK cao hơn, ở mức 13.7 % vào tháng 12 năm 2008. [ 55 ]Năm 2007, 7.2 % sản xuất kinh tế tài chính thuộc nông nghiệp, 32.8 % bởi công nghiệp và 60.7 % bởi nghành dịch vụ. [ 37 ] Theo tài liệu năm 2004, 2.7 % lực lượng lao động được sử dụng cho nông nghiệp, 32.8 % cho công nghiệp và 64.5 % trong ngành dịch vụ. [ 56 ]Lĩnh vực công nghiệp đa phần là ngành đóng tàu, chế biến thực phẩm và hoá chất công nghiệp. Du lịch là nguồn thu đáng kể trong mùa hè với tổng số hơn 11 triệu hành khách năm 2008 tạo ra lệch giá € 8 tỷ. [ 57 ] Croatia được xếp hạng 18 về những điểm lôi cuốn khách du lịch nhiều nhất quốc tế. [ 57 ] Năm 2006 Croatia xuất khẩu hàng hoá với tổng giá trị USD 10.4 tỷ ( FOB ) ( USD 19.7 tỷ gồm xuất khẩu dịch vụ ). [ 57 ]Nhà nước Croatia vẫn trấn áp một phần khá lớn nền kinh tế tài chính, với tiêu tốn cơ quan chính phủ chiếm tới 40 % GDP. [ 49 ] Một số ngành công nghiệp lớn, thuộc chiếm hữu nhà nước, như những xưởng đóng tàu, vẫn dựa vào những khoản trợ cấp của chính phủ nước nhà, vô hiệu góp vốn đầu tư vào giáo dục và công nghệ tiên tiến thiết yếu để bảo vệ tính cạnh tranh đối đầu về lâu bền hơn của nền kinh tế tài chính. [ 49 ]Đáng quan ngại nhất là sự ngưng trệ của mạng lưới hệ thống tư pháp, cộng với tính kém hiệu suất cao của nghành nghề dịch vụ hành chính công, đặc biệt quan trọng những yếu tố chiếm hữu đất đai và tham nhũng. Một yếu tố lớn khác là sự tăng trưởng nhanh gọn khoản nợ vương quốc đã đạt mức 34 tỷ euro hay 89.1 % GDP. [ 58 ] Vì những yếu tố này, những nghiên cứu và điều tra cho thấy dân cư Croatia nói chung không kỳ vọng nhiều vào tương lai nền kinh tế tài chính vương quốc. [ 59 ]Croatia đã vượt qua khá tốt cuộc khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính quốc tế, nhưng đương đầu với những thử thách khá lớn trong năm 2009 đa phần vì sự suy giảm những mẫu sản phẩm xuất khẩu chính và nghành nghề dịch vụ du lịch của nước này. [ 49 ] Sự mất cân đối thương mại với quốc tế và nợ quốc tế cao cũng là những rủi ro tiềm ẩn, bởi việc tiếp cận những khoản vay từ bên ngoài sẽ bị hạn chế nhiều. [ 49 ]Nước này đang là một thành viên của Liên minh châu Âu, đối tác chiến lược thương mại lớn nhất. Tháng 2 năm 2005, Thoả thuận Ổn định và Hợp tác với EU chính thức có hiệu lực thực thi hiện hành .Tính đến năm năm nay, GDP của Croatia đạt 49.855 USD, đứng thứ 82 quốc tế và đứng thứ 27 châu Âu .

Cơ sở hạ tầng[sửa|sửa mã nguồn]

Mảng sáng trong sự tăng trưởng hạ tầng của Croatia gần đây là sự tăng trưởng nhanh gọn của mạng lưới đường cao tốc, những kế hoạch tăng trưởng đã khởi đầu và được triển khai từ thập niên 1970 s, nhưng chỉ trở thành hiện thực sau khi nước này giành được độc lập bởi những kế hoạch đường sá có tầm quan trọng ‘ vương quốc ‘ của nhà nước Nam Tư ( khi đó ) .Croatia hiện có hơn 1,200 km đường cao tốc nối Zagreb với hầu hết những vùng khác. Các đường cao tốc nổi tiếng nhất là A1, nối Zagreb với Split và A3, chạy xuyên đông-tây qua tây-bắc Croatia và Slavonia. Hầu hết những tuyến đường đều phải trả phí, ngoại trừ đường rẽ Zagreb và những đoạn của A3, A7, B8 và B9. Cũng có một mạng lưới đường nhỏ và khó đi hơn nối những tuyến đường cao tốc với nhau. Một trong những tuyến đường được sử dụng nhiều nhất là đường B28, nối A4 gần Zagreb với Bjelovar, nhưng cũng là shunpiking chính sửa chữa thay thế cho A3. Mạng lưới đường cao tốc Croatia được coi là có chất lượng tổng thể và toàn diện tốt và bảo mật an ninh tuyệt vời, giành được nhiều phần thưởng của EUROTAP. [ 60 ] [ 61 ]

Croatia có một mạng lưới đường sắt dày đặc, dù vì những hoàn cảnh lịch sử, một số vùng (đáng chú ý là Istria và thậm chí cả Dubrovnik) không có tuyến đường sắt tiếp cận nếu không phải đi qua nước khác. Cần có sự đầu tư nghiêm túc vào mạng lưới đường sắt trong những thập kỷ tới để nó có được tiêu chuẩn châu Âu cả về tốc độ và hiệu quả sử dụng. Tất cả các dịch vụ đường sắt đều do Croatian Railways (tiếng Croatia: Hrvatske željeznice) điều hành. Mạng lưới xe bus giữa các thành phố (do các doanh nghiệp tư nhân điều hành) phát triển rất mạnh, với mức độ bao phủ và thời gian hoạt động ở mức cao hơn đường sắt.

Croatia có ba trường bay quốc tế lớn, nằm ở Zagreb, Split và Dubrovnik. Các trường bay quan trọng khác gồm Zadar, Rijeka ( trên hòn đảo Krk ), Osijek, Bol, Lošinj và Pula. Croatia Airlines là hãng hàng không vương quốc. Cơ quan Hàng không Liên bang Hoa Kỳ ( FAA ) coi Cơ quan Hàng không Dân dụng Croatia là không thích hợp với Tổ chức Hàng không Dân dụng Thế giới ( ICAO ) về những tiêu chuẩn bảo đảm an toàn. [ 62 ] Một mạng lưới hệ thống phà xum xê, được quản lý và điều hành bởi Jadrolinija, nối những hoàn hòn đảo của Croatia và nối những thành phố ven biển. Cũng có dịch vụ phà tới Italia .
Đại học ZagrebGiáo dục phổ thông tại Croatia khởi đầu từ tuổi lên sáu và gồm tám lớp. Năm 2007 một điều luật được trải qua để tăng độ tuổi giáo dục không tính tiền, nhưng không bắt buộc lên mười tám tuổi. Giáo dục đào tạo cưỡng bách lên tới mười tám tuổi ( Trường Cấp hai ) Giáo dục đào tạo cấp hai được thực thi bởi những trường thể dục và những trường dạy nghề .Croatia có tám trường ĐH, Đại học Zagreb, Đại học Split, Đại học Rijeka, Đại học Osijek, Đại học Zadar, Đại học Dubrovnik, Đại học Pula và Đại học Quốc tế Dubrovnik. Đại học Zadar, Đại học tiên phong tại Croatia, được xây dựng năm 1396 và vẫn hoạt động giải trí tới năm 1807, khi những cơ sở giáo dục cao học khác tiếp quản cho tới sự xây dựng của Đại học Zadar mới năm 2002. Đại học Zagreb, được xây dựng năm 1669, là Đại học có thời hạn hoạt động giải trí liên tục lâu nhất tại Đông Nam Âu. Cũng có những trường bách khoa và giáo dục cao học khác .
Ẩm thực Địa Trung Hải tại DalmatiaVăn hoá Croatia là tác dụng của một lịch sử dân tộc dài mười bốn thế kỷ đã tận mắt chứng kiến sự tăng trưởng của nhiều thành phố và những khu công trình. Nước này có bảy Địa điểm di sản quốc tế và tám vườn vương quốc. Croatia cũng là nơi sinh của một số ít nhân vật lịch sử vẻ vang. Trong số đó có những người nổi tiếng như ba người đoạt giải Nobel và nhiều nhà ý tưởng .

Một số chiếc bút máy đầu tiên của thế giới có từ Croatia. Croatia cũng có một địa điểm trong lịch sử có đồ quần áo như là nguồn gốc của chiếc cà vạt (kravata). Nước này có một nền nghệ thuật và văn học lâu dài và một truyền thống âm nhạc. Một khía cạnh đáng chú ý khác là sự đa dạng của ẩm thực Croatia và loại quà tặng truyền thống nổi tiếng của Croatia, Licitar.

Croatia có khét tiếng là nơi sản sinh ra nhiều vận động viên nổi tiếng trong nhiều môn thể thao. Các môn thể thao phổ cập nhất tại Croatia là bóng đá, bóng ném, bóng rổ, water polo, đánh tennis, và trượt tuyết .Đội tuyển bóng đá vương quốc Croatia đã giành huy chương đồng tại 1998 FIFA World Cup và Davor Šuker đoạt giải Chiếc giày Vàng với tư cách cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất. Đội tuyển bóng đá vương quốc cũng đã vào tới trận tứ kết 1996 European Championships và 2008 European Championships. Mới đây, Croatia cũng đã tạo ra giật mình khi lọt vào trận chung kết World Cup 2018 và thua đội tuyển bóng đá vương quốc Pháp. Đội tuyển nước này hiện xếp hạng 9 trong Bảng xếp hạng của FIFA ( thời gian tháng 9 năm 2009 ). Các cầu thủ nổi tiếng nhất là Luka Modrić, Ivan Rakitić, Ivan Perišić, Mario Mandžukić, Ivica Olić và Eduardo .Đội tuyển bóng ném vương quốc Croatia từng hai lần là nhà vô địch Olympics ( năm 1996 và 2004 ). Đội tuyển cũng giành huy chương vàng tại 2003 World Men’s Handball Championship, và huy chương bạc tại những Giải vô địch quốc tế năm 1995, 2003 và 2009. Croatia giành huy chương đồng tại 1994 European Championships và huy chương bạc tại 2008. RK Zagreb là Vô địch châu Âu năm 1992 và 1993 và 4 lần về thứ hai ( 1995, 1997, 1998 và 1999 ). Các vận động viên Croatia Ivano Balić, Igor Vori và Domagoj Duvnjak hiện là những cầu thủ bóng ném số 1 quốc tế .Đội tuyển bóng rổ vương quốc Croatia đã giành huy chương bạc tại giải đấu bóng rổ Olympic năm 1992, huy chương đồng tại 1994 FIBA World Championship và huy chương đồng tại EuroBasket 1993 và EuroBasket 1995. Các câu lạc bộ bóng rổ Croatia từng năm lần là nhà vô địch Euroleague : KK Split ba lần ( năm 1989, 1990 và 1991 ) và KK Cibona năm 1985 và 1986. Các vận động viên bóng rổ Croatia như Dražen Petrović, Krešimir Ćosić và Toni Kukoč là những vận động viên quốc tế tiên phong thành công xuất sắc tại giải NBA ở Hoa Kỳ .

Đội tuyển water polo quốc gia Croatia đã giành huy chương vàng tại 2007 FINA World Championships và huy chương đồng năm 2009. Đội tuyển cũng giành huy chương bạc tại 1996 Olympic water polo tournament và huy chương bạc năm 1999 và 2003 tại European Championships. Các câu lạc bộ water polo Croatia đã 13 lần giành chức vô địch LEN Euroleague. HAVK Mladost từ Zagreb đã bảy lần giành chức Vô địch châu Âu (năm 1968, 1969, 1970, 1972, 1990, 1991 và 1996) và được trao danh hiệu Câu lạc bộ Tốt nhất thế kỷ XX bởi LEN. VK Jug từ Dubrovnik và VK Jadran từ Split đều từng ba lần giành chức Vô địch châu Âu.

Đội tuyển Davis Cup Croatia ( Ivan Ljubičić, Mario Ančić và Ivo Karlović cùng huấn luyện viên Nikola Pilić ) đã giành thắng lợi giải 2005 Davis Cup vào tới bán kết năm 2009 ( Marin Čilić và Ivo Karlović cùng huấn luyện viên Goran Prpić ). Tay vợt đánh tennis Goran Ivanišević là một trong những vận động viên nổi tiếng nhất nước. Ivanišević đã giành giải vô địch đơn Wimbledon năm 2001 và từng đứng thứ 2 trong Bảng xếp hạng ATP tháng 7 năm 1994. Ivan Ljubičić từng đứng thứ 3 trong Bảng xếp hạng ATP tháng 5 năm 2006. Iva Majoli đã giành chức vô địch đơn nữ Roland Garros năm 1997. Hiện tại tay vợt số 1 Croatia là Marin Čilić xếp hạng 15 tại thời gian ngày 15 tháng 9 năm 2009 .Janica Kostelić là vận động viên trượt tuyết vận tốc nữ thành công xuất sắc nhất trong lịch sử dân tộc Olympic Mùa đông. Cô là người duy nhất giành bốn huy chương vàng môn trượt tuyết vận tốc tại Olympics Mùa đông ( năm 2002 và 2006 ), và là người duy nhất giành ba huy chương vàng trượt tuyết trong một kỳ Olympics ( 2002 ). Cô cũng giành hai huy chương bạc năm 2006. Janica là vô địch tổng hợp World Cup năm 2001, 2003, và 2006. Ngày 5 tháng 2 năm 2006 Janica trở thành vận động viên trượt tuyết nữ thứ hai giành thắng lợi hàng loạt năm môn trong một mùa giải. Cô cũng giữ kỷ lục có số điểm cao nhất tại một mùa giải World Cup. Năm 2006 cô giành Giải Laureus World Sports cho người phụ nữ thể thao của năm. Anh trai cô Ivica Kostelić là vô địch trượt tuyết vượt chướng ngại vật năm 2003 và huy chương bạc nam Olympic 2006 .Blanka Vlašić là vận động viên điền kinh thành công xuất sắc nhất Croatia môn nhảy cao. Cô là nhà vô địch quốc tế năm 2007 và 2009. Blanka cũng là nhà vô địch quốc tế trong nhà năm 2008 và giành huy chương bạc Olympic năm 2008. Thành tích cá thể tốt nhất của cô là 2.08 m ( chỉ kém 1 cm so với kỷ lục quốc tế ) được lập tại Zagreb ngày 31 tháng 8 năm 2009 .Đội tuyển bóng chuyền nữ vương quốc Croatia đã ba lần giành huy chương bạc tại Giải vô địch bóng chuyền châu Âu năm 1995, 1997 và 1999 .Các vận động viên nổi tiếng khác của Croatia là Duje Draganja, Gordan Kožulj, Sanja Jovanović và Đurđica Bjedov môn lượn lờ bơi lội, Zoran Primorac, Dragutin Šurbek, Antun Stipančić và Tamara Boroš môn bóng bàn, Filip Ude môn thể dục, Siniša và Nikša Skelin môn rowing, Martina Zubčić và Sandra Šarić môn taekwondo, Snježana Pejčić môn bắn súng, Matija Ljubek môn canoeing, Željko Mavrović và Mate Parlov môn đấm bốc, Branko Cikatić và Mirko Filipović ” Cro Cop ” môn kickboxing và UFC Goran Reljic .
Một thánh đường Hồi giáo ở Croatia
Tôn giáo tại Croatia[63]

tôn giáo

tỷ lệ

Công giáo Roma

86.28%

Chính thống giáo Đông phương

4.44%

Hồi giáo

1.47%

Tin lành

0.34%

Thuyết vật linh

4.57%

Khác

3.24%

Các tôn giáo chính của Croatia là Công giáo La Mã chiếm 86,28 % dân số, Chính Thống giáo 4,44 %, 0,34 % Tin Lành, Kitô giáo khác 0,30 %, và 1,47 % Hồi giáo. [ 64 ]Các trường công lập được cho phép sự mở những lớp giáo lý tôn giáo trong trường, đây là sự hợp tác giữa những hội đồng tôn giáo với chính phủ nước nhà, nhưng việc tham gia tham gia là không bắt buộc. Các lớp học được tổ chức triển khai thoáng đãng trong những trường tiểu học và trung học công lập. Trong năm 2009, 92 % học viên tiểu học và 87 % học viên trung học tham gia những lớp học giáo lý tôn giáo. [ 65 ]

Vị trí pháp lý của cộng đồng các tôn giáo ở Croatia được xác định bởi luật pháp đặc biệt, đặc biệt liên quan đến chính phủ do sự tài trợ, ưu đãi về thuế, và giáo dục tôn giáo trong các trường học công lập. Các vấn đề khác sẽ do mỗi cộng đồng tôn giáo đàm phán riêng với chính phủ. Việc đăng ký của các cộng đồng tôn giáo ở nước này là không bắt buộc, nhưng tôn giáo nào đã đăng ký sẽ được chính phủ công nhận pháp nhân và được hưởng các ưu đãi về thuế và các lợi ích khác. Pháp luật Croatia quy định để đủ điều kiện đăng ký, một nhóm tôn giáo phải có ít nhất 500 tín hữu và được đăng ký như một hiệp hội dân sự trong 5 năm. Các nhóm tôn giáo có trụ sở ở nước ngoài phải gửi văn bản cho phép đăng ký từ nước sở tại của mình.[66]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Chính phủ
Thông tin chung
Ảnh
Du lịch
Khác

Bản mẫu : Croatia topics

Rate this post

Bài viết liên quan