Chú chó trong thành ngữ dân gian

Năm 2018, theo âm lịch ( lịch can chi ) là năm Mậu Tuất. Năm Tuất lấy Chó làm tượng trưng. Chó là con vật quen thuộc trong đời sống dân gian. Đó là một loại gia súc thuộc nhóm ăn thịt, thường nuôi để giữ nhà hay sử dụng khi đi săn. Trong kho tàng văn học dân gian, có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ tương quan tới loài chó : chó ăn đá gà ăn sỏi, chó cắn áo rách nát, chó cậy gần nhà, chó chê mèo lắm lông, chó đen giữ mực, chó mái chim mồi, chó nằm gầm chạn … Nhân dịp năm mới, ta thử bàn về mấy thành ngữ được coi là ” có yếu tố ” nhé .Năm 2018, theo âm lịch ( lịch can chi ) là năm Mậu Tuất. Năm Tuất lấy Chó làm tượng trưng. Chó là con vật quen thuộc trong đời sống dân gian. Đó là một loại gia súc thuộc nhóm ăn thịt, thường nuôi để giữ nhà hay sử dụng khi đi săn. Trong kho tàng văn học dân gian, có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ tương quan tới loài chó : chó ăn đá gà ăn sỏi, chó cắn áo rách nát, chó cậy gần nhà, chó chê mèo lắm lông, chó đen giữ mực, chó mái chim mồi, chó nằm gầm chạn … Nhân dịp năm mới, ta thử bàn về mấy thành ngữ được coi là ” có yếu tố ” nhé.

CHÓ ĐEN GIỮ MỰC

Chắc có người thắc mắc, tại sao lại có chuyện chó lại đi “giữ mực” ở đây? Chó nuôi để canh cửa giữ nhà, không cho người lạ hay kẻ gian đột nhập. Giữ nhà tức là canh giữ toàn bộ khu vực địa giới của một gia đình nào đó, thường là nhà cửa, vườn tược mà ở đó có đồ đạc, tài sản, cây cối của gia chủ. Mực là chất có màu hòa tan trong nước dùng để viết, vẽ hoặc in ấn. Các em đi học thường quen thuộc với màu mực tím. Các thầy cô giáo chấm bài thường dùng màu mực đỏ. Còn các cụ đồ Nho thường dùng mực Tàu để viết câu đối (trên giấy đỏ) khi Tết đến xuân về. Vậy chó đen giữ mực có phải giữ thứ mực kia không?

” Mực ” trong câu thành ngữ này chính là mực Tàu, mực đen nhánh dùng để viết chữ Hán nói chung. Người ta dùng bút lông, chấm mực này rồi viết trên giấy dó, giấy bản, giấy hồng điều, trên lụa … Màu đen là màu duy nhất, màu đặc trưng của loại mực chuyên sử dụng này. Từ mực từ đó mà biến hóa, có nghĩa là ” màu đen “. Chó đen, người Việt ta thường gọi là chó mực ( như gà đen gọi là gà ác, ngựa đen gọi là ngựa ô … ). Chó đen giữ mực ở đây chỉ là lối nói chơi chữ, rằng đã là ” chó đã đen thì khi nào cũng phải đen “. ” Giữ mực ” chính là ” giữ lấy cái căn cốt, cái riêng không liên quan gì đến nhau về sắc tố ” của loại chó này. Giống như ” mèo vẫn hoàn mèo “, chó đen rút cục vẫn là chó đen ( chó mực ) như cái thực chất vốn có của nó. Ta thường nghe nói : ” Cái bọn cường hào ác bá ấy, đừng hy vọng chúng đổi khác cái nết chó đen giữ mực. Cứ phải đánh đổ chúng thì đời sống dân ta mới khác được ” ( Tổng tập văn học Nước Ta, tập 30A ) ; ” Thôi được, mày đã chó đen giữ mực như vậy thì ông cho mày miếng đất bìa làng, vợ chồng đem nhau ra đấy mà ở ” ( Nguyễn Kiên ). Thành ngữ này như vậy là được dùng với nghĩa xấu đi, chỉ cái tính cố hữu, không đổi khác thực chất của ai đó, trong mọi trường hợp đều như vậy.

CHÓ CẮN ÁO RÁCH

Câu thành ngữ này làm cho ta tưởng tượng ra một tình cảnh thật đáng thương. Có ai đó đang trong bộ đồ rách nát, khổ sở thì bất đồ bị con chó ( hoặc bầy chó ) nào đó xông tới cắn cho liên tục tả tơi. Ví dụ : ” Cả ngày bán rau, tích góp được mấy đồng bạc lẻ, bà Hơn khấp khởi mang về định mai nộp tiền cho con thì bị thế nào lội qua mương để trôi mất túi. Thật là chó cắn áo rách nát ” ( báo Gia Đình Nước Ta ). Thành ngữ chó cắn áo rách nát, dùng để ví thực trạng của ai đó đã nghèo nàn, cùng cực lại liên tục bị mất của, bị thiệt hại. Thật là họa vô đơn chí. ( Tai họa không chỉ đến một lần mà đến dồn dập, hai ba lần nữa ). Tình cảnh này bắt nguồn từ một câu truyện dân gian, lưu truyền khá thoáng đãng ở vùng Phù Lưu Tế, Tỉnh Nam Định. Truyện kể về hai cha con họ Đoàn làm nghề phó cối. Đây là nghề đóng cối xay đất – một dụng cụ cho những mái ấm gia đình nông thôn xay lúa ( sau đó cho cối giã thành gạo để nấu cơm ). Bố con ông Đoàn Tiến trong một ngày thao tác cật lực ở thôn nọ thì trời đã sẩm tối. Đêm xuống, thời tiết vào đông mưa lạnh, họ phải về nhà gấp. Ông Tiến và con chỉ có một chiếc áo tơi che chung. Song mưa to quá, họ đành tạm trú vào một cái lều bên đường. Loay hoay thế nào gió to thổi bay chiếc áo tơi rồi dạt vào cổng một nhà gần đó. Lũ chó nhà này rất hung ác. Chúng xông ra và cắn nát chiếc áo mưa của hai bố con. Tội nghiệp, mất áo che mưa và cũng là áo che thân cho khỏi rét, ông Đoàn Tiến cùng cậu con trai nhỏ, rét run rồi lủi thủi đi về trong mưa lạnh. Câu thành ngữ tuy ngắn gọn nhưng làm cho ta hiểu và cảm thông cho những tình cảnh éo le ở đời của những người nghèo khó, khó khăn vất vả.

CHÓ MÁI CHIM MỒI

Không hiểu sao, thành ngữ chó mái chim mồi lại dùng để chỉ những kẻ trước đây chuyên làm mật thám, chỉ điểm, tay sai cho kẻ địch làm hại nhân dân. Trước hết, ta hãy xem xét nghĩa đen của hai từ này. ” Chim mồi ” là một loại chim mà người ta thuần dưỡng để làm mồi nhử chim khác mắc bẫy. Cò mồi cũng là một loại như vậy. Nhưng ” chó mái ” là gì ? ” Mái ” trong tiếng Việt thường dùng để chỉ 1 số ít con vật giống cái, như gà mái, chim bồ câu mái, con ngan mái … Không ai dùng chó mái để chỉ chó cái. Phải chăng đó là cách đọc biến âm của ” chó má “, vốn là một từ chỉ chó nói chung ? Nhưng như vậy, từ này đặt cạnh ” chim mồi ” ( chỉ một loại chim đơn cử ) lại không chỉnh về cấu trúc ( một từ có nghĩa khái quát, một từ có nghĩa đơn cử ). Theo 1 số ít nhà nghiên cứu, đây là sự đọc trệch âm của ” chó máy chim mồi “. Với cách cắt nghĩa ” máy là động từ chỉ hành vi ai đó ra hiệu cho kẻ khác làm điều gì đó theo ý mình “, như máy nhau trốn học đi chơi, máy mắt làm hiệu, máy cho bọn trẻ tìm đưởng rút lui, … Ở một số ít địa phương, chó máy chính là loại chó dùng để đánh hơi, chỉ điểm cho chủ đi săn thú, tìm kẻ tà đạo hay trẻ lạc. Chó máy đồng nghĩa tương quan với chó săn. Chính vì thế mà câu này còn có biến thể khác là chó săn chim mồi. Nhưng nghe ” chó mái chim mồi “, ta vẫn cảm nhận một sắc thái riêng không liên quan gì đến nhau, vì nó là lạ, nghe có vẻ như ‘ phi lí “. Nhưng chính cái lạ đó lại tạo ra sự sự mê hoặc riêng của câu thành ngữ này. Có lẽ hành vi của những kẻ bán nước hại dân, chuyên làm tay sai cho thực dân, đế quốc cũng giống như hành vi của lũ chó máy, chim mồi và dân gian đã tận dụng nét nghĩa này để ” cấp ” cho câu thành ngữ trên.

CHÓ CÓ VÁY LĨNH

Cái cô nàng Xoan xóm dưới nhà thì nghèo, người thì nhem nhem nhuốc nhuốc mà dạo này không biết thế nào ăn chơi đủ kiểu. Nào váy nọ váy kia, nào xe ga đời mới, iPhone tân kì. Thật khó coi quá, khác nào chó có váy lĩnh ” ( báo Gia Đình Nước Ta ). Người ta thường dùng thành ngữ chó có váy lĩnh ( hay chó mặc váy lĩnh ) để chỉ ai đó đua đòi một cách kệch cỡm, lố lăng, không tương thích. Để hiểu ngọn ngành, trước hết ta phải hiểu ” váy lĩnh ” là gì. Lĩnh là loại vải dệt bằng tơ nõn, mặt bóng mịn, những sợi dọc phủ kín sợi ngang, nom rất đẹp. So với những loại vải thô hay vải dệt bằng những vật liệu rẻ tiền thì lĩnh được coi là quý, hiếm và đắt. Váy lĩnh tất yếu thuộc loại váy đẹp và sang trọng và quý phái. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân ( tục ngữ ). Ngày xưa, phụ nữ được diện váy lĩnh phải là con nhà giàu sang, lắm tiền nhiều của. Ấy mà trong thực tiễn lại xảy ra chuyện ngược đời. Đời thuở nhà ai những chú chó – vốn là những con vật nuôi trong nhà, thân phận thấp hèn – lại ăn mặc thứ của ông hoàng bà chúa. Chó hay lợn, gà, ngan, vịt … đều là những gia cầm, gia súc phải sống trong chuồng bò, xó nhà bếp, phải ăn những thức ăn do người thải ra hoặc kém chất lượng ( cơm thừa, bèo, rau, cám, bã … ). Chó mèo quanh năm phải ở trần với bộ lông dày, lăn lộn bùn đất, bụi bặm bụi bờ, nhơ bẩn. Vậy nên chuyện chú chó nào đó tự nhiên xúng xính trong bộ cánh váy lĩnh là một sự kiện ngược đời, chẳng có gì tương hợp, thành trò cười cho thiên hạ.

Chính từ đó, thành ngữ này còn mang thêm một nét nghĩa nữa. Đó là chuyện chó mặc váy lĩnh không chỉ vô duyên, kệch cỡm mà là chuyện hoang đường, không tưởng mà dân gian đặt ra để đàm tiếu, châm biếm ai đó. Ví dụ: “Có mà chó mặc váy lĩnh thì cái cô đỏng đảnh, trái tính trái nết kia mới vào vòng thi hoa hậu. Đừng có nằm mơ”. Logic ngữ nghĩa này cũng gần với những thành ngữ quen thuộc khác, như chạch đẻ ngọn đa, sáo đẻ dưới nước, rau diếp làm đình… vậy. Chuyện xưa đã có và chuyện nay vẫn còn.

Váy lĩnh cho ” khuyển ” nhà ta Khác nào chạch đẻ ngọn đa đầu làng …

PGS. TS Phạm Văn Tình

Rate this post

Bài viết liên quan