Liên lớp Cá xương – Wikipedia tiếng Việt

Banner-backlink-danaseo

Siêu lớp Cá xương (danh pháp khoa học: Osteichthyes) là một siêu lớp trong phân loại học cho các loài cá, bao gồm cá vây tia (Actinopterygii) và cá vây thùy (Sarcopterygii) khi nhóm cá vây thùy không gộp cả Tetrapoda.

Theo truyền thống nhóm cá xương được coi là một lớp của động vật có xương sống, với các lớp là Actinopterygii và Sarcopterygii, nhưng các sơ đồ mới nhất phân chia chúng thành vài lớp khác nhau. Siêu lớp này trong một số tài liệu về sinh vật học của Việt Nam vẫn gọi là lớp Cá xương cùng với lớp Cá sụn (Chondrichthyes) và một số nhóm cá không quai hàm khác hợp thành các loài cá nói chung. Tuy nhiên, các nghiên cứu phát sinh loài gần đây nhất chỉ ra rằng Osteichthyes là một nhóm cận ngành với các loài động vật có xương sống trên đất liền. Actinopterygii (cá vây tia) là nhóm đơn ngành, nhưng việc gộp cả Sarcopterygii vào trong Osteichthyes làm cho Osteichthyes trở thành cận ngành, do Sarcopterygii chỉ được coi là đơn ngành khi nó gộp cả Tetrapoda (động vật bốn chân). Do vậy, thuật ngữ Euteleostomi (động vật miệng hoàn hảo thật sự) được sử dụng để thay thế cho Osteichthyes, do nghĩa đen của Osteichthyes là “cá xương”, trong khi việc coi động vật bốn chân cũng là “cá xương” là một điều khó chấp nhận khi hiểu theo nghĩa thông thường.

Phần lớn cá xương thuộc về nhóm cá vây tia ( Actinopterygii ), chỉ có tám loài còn sống sót thuộc về nhóm cá vây thùy ( Sarcopterygii ), gồm có cá phổi và cá vây tay, trong đó một số ít loài cá vây thùy có khớp xương .

Osteichthyes là nhóm đa dạng nhất của động vật có xương sống, bao gồm trên 31.000 loài, điều này làm cho nó trở thành siêu lớp lớn nhất của động vật có xương sống mà hiện nay còn tồn tại.

Cá xương được đặc trưng bởi kiểu xương sọ khá không thay đổi, những răng có chân răng, chỗ bám trung bình của những cơ thuộc hàm dưới. Đầu và đai vai ( vây ngực ) được bao trùm bằng những xương da lớn. Nhãn cầu được tương hỗ bằng một vòng màng cứng gồm 4 xương nhỏ, nhưng đặc trưng này đã bị mất hoặc bị biến hóa ở nhiều loài lúc bấy giờ. Đường rối thuộc tai trong chứa những sỏi thính giác lớn. Vỏ não thường thì được chia thành những phần trước và sau, được ngăn cách bằng khe nứt. Cá xương hoặc là có bong bóng hoặc là có phổi. Chúng không có những gai vây, thay vì thế chúng tương hỗ vây bằng những tia vây bằng xương ( lepidotrichia ). Chúng cũng có nắp mang cá, điều này giúp chúng hoàn toàn có thể thở mà không cần bơi .

Xương thay thế sửa chữa[sửa|sửa mã nguồn]

Một trong những sự cải cách đã biết đến của cá xương là sụn hóa xương hay xương ” sửa chữa thay thế “, nghĩa là chất xương được chuyển hóa từ bên trong, bằng cách thay thế sửa chữa chất sụn, cũng như thay thế sửa chữa màng sụn bằng ” xương xốp “. Ở động vật hoang dã có xương sống nói chung thì có nhiều dạng cơ quan khác nhau có sự calci hóa ( vôi hóa ) : ngà răng, men răng và xương, cộng với những biến hóa khác, được đặc trưng bởi sự tăng trưởng thành viên, thành phần hóa học, hình dạng và vị trí của chúng. Nhưng hóa xương từ sụn là duy nhất vì nó khởi đầu sự sống như thể chất sụn .Trong những nhóm động vật hoang dã có xương sống cơ bản hơn, những cấu trúc chất sụn cũng hoàn toàn có thể bị vôi hóa ở mặt phẳng ngoài. Tuy nhiên, ở nhóm cá xương thì hệ tuần hoàn tràn ngập thể mẹ là chất sụn. Điều này được cho phép những tế bào tạo xương ( nguyên bào xương ) cục bộ liên tục tạo xương trong sụn và cũng có được những nguyên bào xương tuần hoàn và bổ trợ. Các tế bào khác từ từ tiêu hóa hết lớp sụn xung quanh. Kết quả ở đầu cuối là chất sụn được sửa chữa thay thế bằng một mạng lưới hệ thống xương có mạch có phần không bình thường. Về mặt cấu trúc, hiệu ứng của nó là việc tạo ra lớp xương bên trong tương đối nhẹ, mềm và xốp, được bao quanh bằng màng xương dạng phiến dày. Kể từ đó lớp xương này được bao quanh bằng lớp xương khác, chứ không phải sụn, nó được nói đến như thể màng bao xương chứ không phải màng bao sụn. Đây là kiểu xương hóa từ sụn duy nhất mà từ đó những loài cá xương có được tên gọi chung, cũng như nhiều lợi thế cấu trúc khác. Tuy nhiên xương hóa từ sụn hoàn toàn có thể là có ích, nhưng nó nặng hơn và ít mềm dẻo hơn so với chất sụn. Vì vậy, nhiều nhóm cá xương tân tiến, gồm có cả nhóm Teleostei cực kỳ thành công xuất sắc, đã tiến hóa xa ra khỏi sự sử dụng việc tích cực xương hóa từ chất sụn .

Hóa thạch sớm nhất đã biết của cá xương là Andreolepis hedei Gross, 1968, có niên đại khoảng 420 triệu năm trước (Trung Ludlow, Thượng Silur). Hóa thạch của nó được tìm thấy tại Nga, Thụy Điển, Estonia và Latvia[1].

Cá thái dương đại dương (cá phiên xa) (Mola mola) là loài cá xương to và nặng nhất trên thế giới, nhưng không phải là dài nhất; vinh dự này dành cho Regalecus glesne). Các cá thể của cá thái dương đại dương đã được biết là dài tới 3,33 m (11 ft) và cân nặng 2.300 kg (5.070 pao). Một loài cá xương lớn khác là cá maclin xanh Đại Tây Dương với một số cá thể nặng trên 820 kg (1.807,4 pao), cá maclin đen và một số loài cá tầm.

  • Lớp Ostracodermi – cá không quai hàm có lớp giáp bằng chất xương.
  • Cá mập gai (lớp Acanthodii) – các họ hàng gần của cá xương và cá sụn.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post

Bài viết liên quan