Bộ Cá chó – Wikipedia tiếng Việt

Banner-backlink-danaseo

Bộ Cá chó (danh pháp khoa học: Esociformes) là một bộ nhỏ trong nhóm cá vây tia, với 2 họ là Umbridae (cá tuế bùn) và Esocidae (cá chó/cá măng). Danh pháp khoa học của chi cá chó (chi Esox) là nguồn gốc danh pháp khoa học của bộ này. Bộ này có 10-12 loài.

Bộ này có quan hệ họ hàng rất gần với bộ Cá hồi (Salmoniformes), hai bộ này cùng với bộ Cá ốt me (Osmeriformes) tạo thành siêu bộ Protacanthopterygii. Các loài cá dạng cá chó lần đầu tiên xuất hiện vào giữa kỷ Creta – các thành viên ban đầu của sự phân tỏa trong nhóm Euteleost vào thời gian đó. Ngày nay, chúng chỉ được tìm thấy trong các vùng nước ngọt ở Bắc Mỹ và khu vực miền bắc của đại lục Á-Âu.

  • BỘ ESOCIFORMES
    • Họ Esocidae
      • Chi Esox: 5 loài cá chó
    • Họ Umbridae
      • Chi Dallia: 1-3 loài
      • Chi Novumbra: 1 loài
      • Chi Umbra: 3 loài

Phát sinh chủng loài[sửa|sửa mã nguồn]

Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Betancur và ctv ( 2013 ) [ 1 ] .

 Euteleosteomorpha 

 Lepidogalaxiiformes (Lepidogalaxias salamandroides)

 Protacanthopterygii 

Argentiniformes

Galaxiiformes

 Esociformes

Salmoniformes

 Stomiatii 

Osmeriformes

 Stomiiformes

Neoteleostei

Các loài cá chó có khuynh hướng nằm chờ đón, nghĩa là chúng là những kẻ săn mồi theo kiểu phục kích, với mõm dài, thân hình nhiều cơ bắp và dài, đuôi xẻ thùy, và những vây sống lưng và vây hậu môn được sắp xếp đối nhau để hoàn toàn có thể tạo ra tần suất lớn dọc theo một đường thẳng, được cho phép chúng nhanh gọn phóng ra từ chỗ ẩn nấp để chụp con mồi. Con mồi bị xiên qua thân mình bởi những răng sắc và nhọn, sau đó cá chó lùi về chỗ nấp, xoay con mồi và nuốt nó từ phần đầu trở xuống .Về mặt giải phẫu, cá chó có những răng hàm trên như ở cá mập, có xương quạ, không có vây béo, có những u bướu sinh sản và ruột tịt môn vị .

Hai loài đáng chú ý nhất là Esox lucius hay cá chó phương bắc, có thể dài tới 1,5 m, và cá chó sông Ohio (E. masquinongy), thậm chí còn to lớn hơn.

Cá tuế bùn[sửa|sửa mã nguồn]

Cá tuế bùn nhỏ hơn nhiều so với anh em cùng bộ, thông thường không dài quá 20 cm. Tuy nhiên, chúng là những kẻ săn mồi theo kiểu mai phục cực kỳ lợi hại, thức ăn chủ yếu của chúng là các loài động vật không xương sống trong các vùng nước ấm và tù đọng. Trong số 3 loài có ở Bắc Mỹ của chi Umbra, một loài (U. limi), có khả năng hạn chế trong việc hít thở không khí. Các loài trong chi Umbra nói chung được tìm thấy ở khu vực ven biển Đại Tây Dương của Bắc Mỹ, trong các đầm lầy, ít oxy ven sông Mississippi cũng như trong các môi trường tương tự ở châu Âu.

  1. ^ PLOS Currents Tree of Life. 18-04-2013. Ấn bản 1, 10.1371/currents.tol.53ba26640df0ccaee75bb165c8c26288Ricardo Betancur-R., Richard E. Broughton, Edward O. Wiley, Kent Carpenter, J. Andrés López, Chenhong Li, Nancy I. Holcroft, Dahiana Arcila, Millicent Sanciangco, James C Cureton II, Feifei Zhang, Thaddaeus Buser, Matthew A. Campbell, Jesus A Ballesteros, Adela Roa-Varon, Stuart Willis, W. Calvin Borden, Thaine Rowley, Paulette C. Reneau, Daniel J. Hough, Guoqing Lu, Terry Grande, Gloria Arratia, Guillermo Ortí, 2013, The Tree of Life and a New Classification of Bony Fishes, Currents Tree of Life. 18-04-2013. Ấn bản 1, doi

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post

Bài viết liên quan