Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng BS. Nguyễn Hải Hà – Trưởng Đơn nguyên vắc xin – Khoa Ngoại trú Nhi – Trung tâm Nhi – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.
Bệnh dại là bệnh viêm não tủy cấp tính do virus, lây truyền từ động vật sang người chủ yếu qua vết cắn, vết liếm lên vùng da bị tổn thương của động vật mang virus gây bệnh. Các biểu hiện của bệnh dại trên người là sợ nước, sợ gió, co giật, liệt và dẫn đến tử vong. Khi đã lên cơn dại, tỉ lệ tử vong gần như 100% (cả người và động vật).
1. Virus dại xâm nhập vào cơ thể người
Ổ chứa virus dại trong tự nhiên là động vật có vú máu nóng như chó sói, chó rừng, chó nhà, mèo, chồn, cầy, cáo và động vật có vú khác. Ngoài ra, còn có thể có ở loài dơi. Ở Việt Nam, chủ yếu virus dại lây qua đường tiếp xúc do động vật cắn, liếm lên vùng da bị tổn thương hoặc bị nước bọt bắn vào niêm mạc. Sau khi xâm nhập vào cơ thể người, virus dại sẽ theo dây thần kinh lên não với vận tốc khoảng 0.3mm/giờ, gây tổn thương thần kinh trung ương. Phần cuống não bị nhiễm trước tiên, sau đó tới vùng dưới đồi và cuối cùng đến phần vỏ não bị tổn thương. Virus nhân lên trong não, rồi di chuyển theo thần kinh đến các cơ quan khác như tuyến nước bọt, thận, phổi, tim, gan…
Bạn đang đọc: Nhận diện các biểu hiện ban đầu của bệnh dại ở người
Ở tuyến nước bọt, virus nhân lên với số lượng lớn, tạo ra nguồn lây bệnh nguy hiểm nhất. Kể từ ngày virus vào cơ thể người, thời gian ủ bệnh rất thay đổi tùy từng cá thể, từ 1 tuần đến trên 1 năm, thậm chí có trường hợp trên 6 năm, trung bình ủ bệnh từ 1 – 3 tháng, hiếm có trường hợp dưới 9 ngày hoặc trên 1 năm. Thời gian ủ bệnh phụ thuộc vào số lượng virus, mức độ nghiêm trọng của vết thương, khoảng cách từ vết cắn đến thần kinh trung ương. Thực tế cho thấy, tỉ lệ phát bệnh dại và tử vong cao nhất là từ vết cắn ở mặt, tỉ lệ tử vong trung bình ở tay, thấp nhất là ở chân.
2. Một số đặc điểm thường gặp ở người bệnh
Lúc đầu người bệnh có cảm xúc đau đầu, bồn chồn, thổn thức, hô hào, chán nản vô cớ, sợ hãi, sốt, không dễ chịu và những đổi khác cảm xúc dị thường tại vết thương nơi bị súc vật cắn. Bệnh tiến triển đến liệt hoặc bị liệt. Các cơ nuốt của thực quản bị co thắt khi uống nước, quá trình sau hoàn toàn có thể gây co thắt ở cổ và họng khi nhìn thấy hình ảnh nước nên người bệnh rất sợ nước, người bệnh mê sảng và co giật. Bệnh thường lê dài từ 2 – 6 ngày rồi chết do liệt cơ hô hấp .
3. Cách nhận biết bệnh dại ở người theo từng thời kỳ
- Thời kỳ ủ bệnh: được tính từ khi bị chó (hoặc động vật mắc bệnh dại) cắn, liếm lên vùng da bị tổn thương đến khi phát bệnh, đây là khoảng thời gian quý báu để cứu sống người bệnh. Dấu hiệu của thời kỳ này gần như không có, nếu thời gian ủ bệnh ngắn thì dấu hiệu duy nhất là vết cắn, vết xước trên da. Vì vậy, người bị động vật cắn phải đi khám và tiêm vắc-xin phòng bệnh dại ngay sau khi bị cắn là việc làm quan trọng nhất.
- Thời kỳ tiền triệu (khởi phát): là các biểu hiện ban đầu của bệnh dại ở người trước khi phát bệnh, bệnh nhân có biểu hiện lo lắng, thay đổi tính tình, có thể có cảm giác ngứa, đau ở nơi bị cắn. Lưu ý rằng đến lúc này, đa phần bệnh nhân đã quên việc bị chó (hoặc động vật khác) cắn.
- Thời kỳ toàn phát: bệnh dại thường có 2 thể bệnh cơ bản là thể hung dữ và thể liệt.
- Triệu chứng của bệnh dại ở người thể hung dữ hoặc co cứng: bệnh nhân sẽ biểu hiện một tình trạng kích thích tâm thần vận động, bệnh nhân trở nên hung tợn, điên khùng, gây gổ, đập phá lung tung và nhanh chóng tiến tới hôn mê và tử vong.
Bệnh nhân bị co cứng, run rẩy tứ chi, co giật, co thắt họng và thanh khí quản gây triệu chứng sợ nước, có cảm giác khát không dám uống, chỉ nhìn thấy hoặc nghe thấy tiếng nước chảy cũng gây tăng co thắt họng và rất đau. Tình trạng co thắt này tăng lên mỗi khi có kích thích dù rất nhỏ như: gió thổi, quạt điện, mùi vị thức ăn, ánh sáng… Bệnh nhân có nét mặt luôn căng thẳng, hoảng hốt, mắt sáng và đỏ, tai thính, có thể có tình trạng kích thích bộ phận sinh dục, cương cứng dương vật ở đàn ông. Bệnh nhân bắt đầu sốt tăng dần, vã mồ hôi, tăng tiết đờm dãi, rối loạn tim mạch và hô hấp, ảo giác. Các triệu chứng này tiến triển nặng dần và tử vong sau 3 – 5 ngày do ngừng tim, ngừng thở.
- Triệu chứng của bệnh dại ở người thể liệt: hay gặp ở bệnh nhân bị chó dại cắn đã tiêm vắc xin nhưng tiêm phòng khá muộn, virus đã vào đến não gây bệnh. Bệnh nhân thường không có triệu chứng sợ nước, sợ gió.
Ban đầu có thể thấy đau nhiều vùng cột sống, sau đó xuất hiện hội chứng liệt kiểu Landry (đầu tiên liệt chi dưới, sau đó rối loạn cơ vòng, rồi liệt chi trên). Khi tổn thương lan tới hành não, bệnh nhân sẽ xuất hiện liệt thần kinh sọ, ngừng thở và ngừng tim, tử vong. Diễn biến của bệnh khoảng 4-10 ngày.
4. Làm gì khi bị động vật cắn?
Khi bị chó mèo (hoặc động vật) cắn, có 2 việc cần làm là: xử trí vết thương và tiêm vắc-xin phòng uốn ván, phòng dại và huyết thanh kháng dại. Ngoài ra, cần phải theo dõi chặt chẽ sức khỏe của động vật cắn.
4.1. Xử trí vết thương:
- Cần tách rời quần áo ra khỏi vết cắn, dùng kéo cắt bỏ phần vải tại vị trí cắn (nếu có). Điều này giúp hạn chế nước bọt của động vật bám nhiều hơn vào vết thương.
- Rửa vết thương dưới vòi nước chảy mạnh trong vòng 15 phút, nước ấm càng tốt. Sau đó, rửa sạch vết thương với cồn 70%, cồn i-ốt hoặc Povidone-Iodine, tuyệt đối không cố gắng nặn máu. Không nên chà sát vết thương, tránh làm vết thương trầm trọng hơn. Không đắp lá cây, dầu hỏa hoặc bất kì chất gì vào vết thương
- Sau khi vệ sinh vết thương, người bệnh nên dùng gạc y tế hoặc vải sạch để băng bó vết thương để cầm máu đồng thời tránh trường hợp vi khuẩn xâm nhập. Tuy nhiên, không nên băng bó quá chặt khiến máu khó lưu thông. Nếu vết thương cần khâu cầm máu thì nên khâu thưa, không khâu thẩm mỹ.
- Một số vết thương bị cắn cần uống kháng sinh theo đơn của bác sỹ để dự phòng nhiễm khuẩn.
4.2. Tiêm vắc-xin phòng uốn ván, phòng dại và kháng huyết thanh chống dại:
Người bệnh cần đến ngay các cơ sở y tế để tiêm vắc-xin phòng uốn ván, vắc-xin phòng dại và huyết thanh kháng dại (nếu vết thương độ III) ngay sau bị chó cắn. Lịch tiêm theo lộ trình và loại vắc-xin phòng dại sẽ được các bác sĩ tư vấn phù hợp tùy theo phân độ vết thương và phác đồ điều trị dự phòng sau phơi nhiễm. Tiêm vắc-xin phòng dại sau phơi nhiễm sẽ có 2 phác đồ: tiêm bắp và tiêm trong da
- Tiêm bắp, phác đồ tiêm phòng dại khi đã xác định có phơi nhiễm (đã bị cắn):
- Người chưa tiêm dự phòng trước phơi nhiễm: Tiêm 5 mũi (0.5ml/liều) vào các ngày 0, 3, 7, 14, 28. Trong trường hợp phơi nhiễm độ III, cần phối hợp tiêm huyết thanh kháng dại kết hợp.
- Người đã tiêm dự phòng trong 5 năm gần đây: Tiêm 2 mũi vào ngày 0 và 3.
- Người đã tiêm dự phòng không đều hay quá 5 năm: Tiêm 5 mũi vào các ngày 0, 3, 7, 14, 28 và có thể tiêm thêm huyết thanh kháng dại.
- Tiêm trong da, phác đồ tiêm phòng dại, liều 0.1ml x 2:
- Người chưa tiêm dự phòng trước phơi nhiễm: Tiêm 4 mũi: tiêm ở vị trí hai bên chi khác nhau, mỗi bên liều lượng 0.1 ml, vào các ngày 0, 3, 7 và 28.
- Người đã tiêm dự phòng: Tiêm 0.1ml vào các ngày 0 và 3.
5. Điều trị khi đã lên cơn dại
Đến nay Y học vẫn chưa có thuốc gì hoàn toàn có thể cứu sống bệnh nhân khi đã lên cơn dại. Việc điều trị lúc này chỉ là điều trị triệu chứng như an thần và để bệnh nhân nằm ở nơi yên tĩnh, riêng không liên quan gì đến nhau .
6. Phòng ngừa bệnh dại khi săn sóc người bệnh
Bệnh dại là một bệnh rất nguy hiểm, khi săn sóc bệnh nhân, người nhà hoặc nhân viên y tế nên mặc đầy đủ trang bị bảo hộ như: mũ, quần áo, găng tay, ủng…, rửa tay xà phòng kỹ sau khi săn sóc và sát khuẩn bằng cồn. Các đồ dùng của bệnh nhân cần đốt hủy. Các vật dụng bằng sắt, giường, tủ, sàn nhà… cần lau rửa bằng xà phòng và phun thuốc khử khuẩn.
Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!
Source: https://thucanh.vn
Category: Chó cảnh