Súc sinh – Wikipedia tiếng Việt

Banner-backlink-danaseo

Súc sinh (chữ Hán:畜生, tiếng Phạn: tiryañc) còn gọi là súc sanh, là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ về các loài thú vật nói chung gồm tất cả loài thú, chim, cá, rắn, côn trùng .[1] Theo nghĩa chữ Hán thì từ Súc có nghĩa là súc dưỡng, nuôi lấy và sinh có nghĩa là chúng sinh thuộc súc vật và bản tính của súc sinh thì ngu, si, sự sống của súc sinh thì dơ dáy, tồi tàn, ăn ở lộn xộn.

Súc sinh” trong phương ngôn tiếng Việt ở Bắc Bộ được đọc là /suk sɪŋ/ hoặc /ʂuk ʂɪŋ/, trong phương ngôn tiếng Việt ở Nam Bộ đọc là /suk sɪ̈n/ hoặc /ʂuk ʂɪ̈n/. “Súc sanh” trong phương ngôn tiếng Việt Nam Bộ được đọc là /suk san/ hoặc /ʂuk ʂan/, trong phương ngôn tiếng Việt Bắc Bộ đọc là /suk saŋ/ hoặc /ʂuk ʂaŋ/. Theo cách hiểu thông dụng trong xã hội thì câu súc sinh hay đồ súc sinh, thằng súc sinh, bọn súc sinh được xem là một câu chửi rất nặng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác và có thể bị kiện ra tòa vì theo quan niệm xã hội thì súc sinh là thứ tệ nhất trong muôn loài vật còn tệ hơn cả con chó, con mèo[2].

Kiếp súc sinh[sửa|sửa mã nguồn]

Súc sinh còn được hiểu là một kiếp trong Bát nạn và đồng thời là luân hồi trong Lục đạo ( cõi Ta bà ) gồm âm ti, ngạ quỷ, súc sinh, người, a-tu-la, trời. Theo cách hiểu của Phật tử thì ba đường khổ là âm ti, ngạ quỷ, súc sinh, trong đó nạn khổ súc sinh thì sự khổ hoàn toàn có thể nhận thấy thuận tiện ở trước mắt, ai cũng thấy và để thoát khỏi kiếp súc sinh thì phải qui y Tăng rồi khỏi đọa súc sinh. Theo quan điểm Phật giáo thì kiếp súc sinh hình thành người đời trước do si mê không biết rõ thế nào là thiện, thế nào là ác, thế nào là tội, thế nào là phước, thế nào là tà, thế nào là chánh nên kiếp hiện tại này đọa làm súc sinh theo mục tiêu người không phân biệt rành rõ thiện ác, tội phước, tà chánh, say đắm gọi là si mê. Si mê nên chết phải đọa làm loài súc sinh, chúng chính là những con người đã mang thân súc vật. [ 3 ] Sự chuyển hóa vào loài súc sinh do hai kiểu gồm do sự tiến hóa lần lần theo nấc thang của vạn vật. Thứ hai là bị đày vì tội nghiệt, quả báo nặng. Ví dụ như kẻ vì hà tiện mà chuyển hóa làm rắn, làm chó, thiếu nợ mà chuyển hóa làm trâu, làm lừa, ngựa ( kiếp trâu ngựa ) để đền bù .

Tín lý Phật giáo xem rằng không thể tách mình ra khỏi cảnh khốn khổ của thú vật, khi chính con người đã trải nghiệm điều đó, giống như những muông thú đã trải qua những kiếp làm người. Quan điểm của Phật giáo về luân hồi ngang qua các loài sống làm giảm khoảng cách tinh thần giữa con người và động vật. Những Phật tử thời kỳ đầu chấp nhận quan điểm rằng tất cả muông thú thuộc về một lãnh vực mà nó thấp hơn lãnh vực của con người, muông thú vẫn không được xem là có khả năng thăng tiến trong giáo pháp. Phật giáo đánh giá thấp những phẩm chất tâm linh của muông thú và có thể nói rằng muông thú trên tổng thể nói chung được xem là nhiều bạo lực, dữ tợn, si ngốc, ít thông minh, ngu độn và sự hiện hữu của chúng là ít thỏa mãn hơn sự hiện hữu của con người.

Ở Sri Lanka, một số ít động vật hoang dã được đối xử tốt hơn những động vật hoang dã khác, và chó nắm giữ một trong những bậc thấp nhất trên bảng phân cấp khinh trọng này. Chúng thường bị xem là loài vật ô uế, tồi tệ mà sự xuất hiện của chúng là do mang ác nghiệp trong tiền kiếp. Một trong những lời lăng mạ nặng nề nhất trong từ vựng Sinhala ( ngôn từ của người Sri Lanka ) là gọi người nào đó là một con chó hay con của một con chó ( balage putā ), sự xuất hiện của con chó gần ngôi tháp được nghĩ sẽ làm ô nhiễm một nơi thiêng liêng. Thú vật, đặc biệt quan trọng là chó, thường ít được những Phật tử tại gia chăm sóc và thường xua đuổi chúng khỏi những nơi tu tập thanh tịnh, cho rằng chúng không hề hiểu Phật pháp .Phật giáo chỉ ra rằng chúng sanh thấp kém hay cao quý là do nghiệp, chúng sinh trải từ sự hiện hữu này đến sự hiện hữu khác là tái sanh tương ứng với thực chất hành vi của họ. Nghiệp của một chúng sanh đưa vị ấy trải từ sự hiện hữu này đến sự hiện hữu khác tùy thuộc nó thiện hay bất thiện, nếu họ là những thợ săn tay đẫm máu, hay những tên trộm thì có năng lực tái sanh vào trong hình thức của một sinh vật vụng trộm hay bò trườn như một con rắn, một con bò cạp, một con rết, một con cầy mangut, một con mèo, một con chuột, một con cú. Vì những loại nghiệp là vô tận, nên những loài chúng sanh cũng như vậy. Chúng sinh trên toàn cầu này là vô số và loài này khác với loài kia. Đây là do sự khác nhau của nghiệp. Sanh làm thú được xem như một tác dụng của nghiệp xấu khi đời sống của một con thú được xem như đời sống mà nó đầy đấm đá bạo lực, thiếu lý trí và ít niềm hạnh phúc .Dù nơi 1 số ít trường hợp, quái vật hoàn toàn có thể thoát khỏi sự giam giữ của chúng nơi cảnh giới súc sinh ngang qua việc tham gia vào những việc làm tốt giúp đưa chúng đến tái sanh làm người mà ở đó hiểu Phật pháp là hoàn toàn có thể. Thú vật thiếu năng lực nhận thức để sử dụng Phật pháp vì quái vật không có năng lực để hiểu thế cho nên chúng sống ở những nơi ở trong rừng, nơi tách khỏi xã hội con người có một sự khác nhau từ những con thú mà chúng sống trong rừng. Nhưng nói chung, quái vật không có năng lực để cảm nhận. Cách làm cho quái vật thoát khỏi tình cảnh là làm vơi đi ác nghiệp mà chúng đã tạo nhưng việc nghe Phật pháp hoàn toàn có thể có một số ít tác động ảnh hưởng tích cực vào chúng và hoàn toàn có thể phát khởi một tâm lý tốt tự nhiên. Suy nghĩ tự nhiên này hoàn toàn có thể đủ để đẩy chúng ra khỏi cảnh giới súc sinh, sự hiện hữu của Phật pháp có một ảnh hưởng tác động quy đổi tích cực vào những người tận mắt chứng kiến nó .

Sự luân hồi[sửa|sửa mã nguồn]

Luân hồi chỉ cho việc tâm thức trải qua nhiều kiếp sống. Chết là hết một kiếp, tâm thức mang theo nghiệp đi tái sinh kiếp mới. Hình thức của một kiếp sống là khác nhau, hoàn toàn có thể quy đổi giữa những loài, những quốc tế ( cõi súc sinh, cõi người, cõi a-tu-la, cõi trời ). Quan hệ nhân quả quyết định hành động phương pháp luân hồi, hay nói cách khác tùy nghiệp đã tạo mà sẽ luân hồi tương ứng để nhận quả. Thuyết luân hồi đã có từ lâu tuy nhiên đi sâu vào thuyết Luân hồi phải là Ấn Độ giáo và Phật giáo, ý tưởng sáng tạo về sự luân hồi qua đầu thai được ra mắt lần tiên phong trong Áo nghĩa thư ( Upanishad ) là những bản kinh về triết lý và tôn giáo được viết bằng tiếng Phạn .Hầu hết những tôn giáo ở Ấn Độ, ngoại trừ Phật giáo đều gật đầu có một linh hồn không bao giờ thay đổi sống sót trong mỗi con người. Ấn độ giáo chủ trương có một linh hồn ( Atman ) không bao giờ thay đổi, sống sót sau khi chết, linh hồn này tái sinh vào những cảnh giới khác nhau và chịu sự chi phối của luân hồi. Nghiệp ( Karma ) là giáo lý quan trọng so với hầu hết những tôn giáo ở Ấn độ. Ấn Độ giáo cho rằng có hiện tượng kỳ lạ luân hồi giữa người và động vật hoang dã khiến, con người và động vật hoang dã hoàn toàn có thể luân hồi qua lại. Con người sống trên đời tạo ra ” Nghiệp “. Nếu con người tạo ra nghiệp tốt, sẽ được đầu thai vào chỗ giàu sang danh vọng. Nếu con người tạo ra nghiệp xấu, sẽ bị đầu thai vào chỗ nghèo hèn hay thành quái vật hoặc côn trùng nhỏ .

Trong Chàndogya Upanishad có nói: “Những người khi ở trần gian này biết cư xử tốt, thì rồi cũng nhanh chóng sẽ được sinh ra ở những đẳng cấp cao như giới Brahman, như Kshatriga, hay là như Vaisya. Nhưng những kẻ ở trần gian này hành động, làm việc tồi tệ, độc ác… thì kiếp sau họ sẽ được sinh ra như sự độc ác mà họ đã cư xử, sinh ra làm con chó, con heo, hoặc làm giới Chandala” là hạng người thấp kém nhất của xã hội, dạng thối tha, bị xã hội ruồng rẫy. Người Ấn Độ Giáo đã nói: Trâu bò có nhiều màu sắc, nhưng tất cả sữa của chúng giống nhau… hệ thống tín ngưỡng khác nhau, nhưng Thượng đế chỉ là một

Linh hồn con người có thể không luân hồi làm thú vật, vì luân hồi có nghĩa là nhập vào một dẫn thể vật chất, từ đó linh hồn thủ đắc và kiểm soát dẫn thể ấy. Sự nối kết coi như hình phạt, trói buộc linh hồn con người với hình thể thú vật không phải là sự luân hồi. Vì linh hồn thú vật là chủ nhân chính thức của thể xác con vật ấy sẽ không bị khử hoàn toàn ra ngoài, và linh hồn con người cũng không thể kiểm soát thân xác con vật mà họ tạm thời chiếm giữ. Trong thời gian chịu khổ hình như thế, linh hồn con người không trở thành con vật, cũng không mất đi những tính chất thuộc con người. Sau khi không còn bị ràng buộc vào con thú và được tự do trở lại, con người tiếp tục theo hình thể con người mà họ đã bỏ dở.

Khi chân ngã, hay linh hồn con người, do sự thèm khát xấu xa, tạo nên sự nối kết can đảm và mạnh mẽ với một loại quái vật nào đó, thể tình cảm của người ấy cho thấy có những điểm tương đương với những đặc tính của con thú. Trong cõi trung giới, tư tưởng và dục vọng được biểu lộ thành hình thể, hoàn toàn có thể lấy những hình thể quái vật. Sau khi chết, vong linh tội lỗi ở vào cảnh thấp cõi trung giới hoàn toàn có thể khoác lấy hình thể làm bằng vật liệu cõi trung giới, giống như con thú có những đặc tính mà người ấy đã có trong suốt thời hạn sống ở trần gian. Điều này xảy ra vào quá trình sau khi chết, và trong vài trường hợp đặc biệt quan trọng vào quy trình tiến độ linh hồn đi tái sinh, xuống trở lại cõi trung giới .Do sự lôi cuốn từ điển mà linh hồn bị kết dính vào thể vía của con thú có cùng đặc tính, và xuyên qua thể vía con thú, linh hồn bị xiềng xích vào ngục tù xác thân con thú. Khi bị cột chặt vào con thú, như một hình phạt nô lệ, linh hồn có ý thức, nhưng không hề trấn áp thể xác con thú, cũng không hề tự biểu lộ xuyên qua thể xác con thú ở cõi trần. Sự cấu trúc thể xác con thú không có chính sách thiết yếu để linh hồn con người tự biểu lộ. Thể xác con thú chỉ là một nhà tù nhỏ, linh hồn con thú không bị tống ra khỏi thể xác của nó, nó là gia chủ chính thức, trấn áp khung hình của nó, thực trạng giam giữ như vậy không phải là luân hồi, linh hồn con người không hề tái sinh vào con thú, không hề trở thành con thú .Trong những trường hợp linh hồn đồi trụy chưa đến mức trọn vẹn bị giam hãm trong thể vía quái vật, nhưng thể vía của chính họ bị thú tính hóa can đảm và mạnh mẽ, linh hồn ấy vẫn hoàn toàn có thể liên tục con đường tái sinh trong thể xác con người, nhưng đa số những đặc tính quái vật sẽ biểu lộ nơi thể xác vật chất, như vài trường hợp sinh ra với hình thù quái gở, đáng kinh tởm, với khuôn mặt giống như heo, chó thì người đeo đuổi theo những tật xấu thú tính, phải gánh chịu những hậu quả mà họ đã gây ra khác với những tật xấu mang lại thực trạng nô lệ vào quái vật, trong những trường hợp này, linh hồn cũng vướng mắc vào một hình thể mà qua đó nó không hề tự biểu lộ được .Trong trường hợp con thú, nó chưa có chân ngã, hay linh hồn riêng biệt, thay vào đó là một mảnh của hồn khóm, và mảnh hồn khóm này đóng vai trò của chân ngã, nhưng mảnh hồn khóm này không hề giữ chặt những dẫn thể của nó như trường hợp linh hồn con người và như thế đó là hồn thú hoàn toàn có thể bị đẩy ra khỏi những dẫn thể của nó một cách thuận tiện hơn trong trường hợp linh hồn con người, đôi khi ấy ám ảnh hay nhập xác một con thú, thường không hề trục xuất hẳn hồn thú ra khỏi thể xác của nó và san sẻ nơi trú ngụ với gia chủ thật sự của thể xác con vật. Họ tiếp xúc được với cõi trần xuyên qua thể xác con thú, họ nhìn thấy qua mắt của con thú, và gánh chịu những cảm xúc đau đớn qua thể xác con thú ấy, lúc ấy họ là con thú .

Nhiều người được cho là có khả năng nhĩ thông, hoặc chỉ đủ nhạy cảm để có thể thu nhận tư tưởng của những sinh vật đáng thương đang liên kết với các con thú ấy, những tư tưởng này được biểu tượng hóa một cách tự nhiên để có thể nghe được như những tiếng kêu gào, van xin thảm thiết. Có những bộ tộc tin tưởng một vài loài vật không thể bị giết hại hay hành hạ, vì có thể đụng chạm đến vong hồn của tổ tiên họ. Người tự kết dính với một con thú, không thể rời bỏ thể xác con thú theo ý muốn, thường họ chỉ được tự do sau khi con thú chết, và ngay sau khi con thú chết, họ cũng vẫn còn vướng mắc một phần thể vía của thú vật, cần phải được loại bỏ.

Sau khi con thú chết, đôi lúc linh hồn đồi trụy quá mức lại cố ám ảnh một con thú khác cùng đàn, hoặc bất cứ con thú nào khác thích hợp với thú tính của họ, khi con thú bị ám ảnh hay chỉ bị ám ảnh một phần bởi con người, thường bị những con thú khác cùng đàn sợ và tránh xa, và chính những con thú bị ám ảnh thường biểu lộ sự bực tức, nổi giận và sợ sệt. Những con thú thường bị ám ảnh là những con thú kém phát triển như gia súc, cừu và heo. Những con vật thông minh hơn như chó, mèo, ngựa không dễ bị xua đuổi khỏi thể xác của chúng. Tình trạng ám ảnh thú vật là sự thay thế cho cuộc sống khủng khiếp của hình thức quỷ nhập tràng biến hình, sự ám ảnh thú vật, người xấu ác sau khi chết có thói quen tạm thời nhập vào một con thú nào đó để thực hiện mục đích xấu ác, những trường hợp ám ảnh, dù thể xác con người hay con thú, đều xấu ác và là một chướng ngại cho linh hồn làm chậm trễ vào cõi trung giới sau khi chết.

Không sát sanh[sửa|sửa mã nguồn]

Theo thuyết của Phật giáo thì theo niềm tin bình đẳng nên súc sinh cũng cần được tôn trọng sinh mạng như con người, do đó Phật giáo đề ra ngũ giới trong đó có pháp luật không sát sinh tức là không giết người và giết những loài súc sinh nói chung. Đồng thời cũng có khi vì tế độ chúng sinh, Bồ Tát đôi lúc cũng chuyển hóa vào hạng súc sanh. Như đức Phật Thích Ca từng sinh ra làm cá để cứu bịnh thời khí, làm công để thuyết diễn đạo lý, làm nai để tỏ cái đức từ bi cứu thế … 1 số ít loài súc sinh biết giác ngộ sẽ trở thành cao quý như những loài chim quý, lạ ở Cực Lạc quốc tế, do sức thần thông của đức Phật A Di Đà mà hóa sinh để thuyết pháp cho những nhà tu học ở đó nghe. Theo Phật giáo nguyên thủy, trên trần gian, có hai loại nhân : một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi trồng nhân thiện thì gặt quả thiện, khi trồng nhân ác thì gặt quả ác. Nếu tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm, thì tương lai sẽ thọ quả báo của âm ti, ngạ quỷ, súc sinh .

Phật giáo quan niệm “chúng sinh là bình đẳng“, loài người (nhân giới) cũng chỉ là một kiếp sống như các loài sinh vật khác (súc sinh giới, a-tu-la giới, thiên giới), loài người cũng không phải là tối thượng (loài người kém hơn các “chư Thiên” về sức mạnh và trí tuệ). Song dù là loài người, “chư Thiên” hay súc sinh thì cũng đều là sinh vật, phải chịu quy luật Nhân quả (làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác), không sinh vật nào là vĩnh cửu mà đều phải có lúc chết, lúc chết thì sẽ luân hồi sang kiếp sống khác, kiếp sau như thế nào thì phải tùy vào việc làm nhiều thiện nghiệp hay ác nghiệp (ví dụ: một người mà làm nhiều điều thiện thì kiếp sau có thể luân hồi thành 1 vị “chư Thiên”, nhưng nếu mà làm nhiều điều ác thì kiếp sau lại trở thành súc sinh).

Rate this post

Bài viết liên quan