Sư hổ – Wikipedia tiếng Việt

Sư hổ (tên gọi bằng tiếng Việt không chính thức) tiếng Anh: liger danh pháp khoa học: Panthera leo × Panthera tigris) là con lai giữa sư tử (Panthera leo) đực với hổ (Panthera tigris) cái. Bố mẹ của sư hổ thuộc cùng chi nhưng khác loài. Sư hổ khác với hổ sư (bố hổ và mẹ sư tử). Sư hổ là loài lớn nhất thuộc họ Mèo.[1]

Sư hổ thích lượn lờ bơi lội, đây là đặc tính của loài hổ, đồng thời sư hổ cũng có đời sống bầy đàn như sư tử. Sư hổ chỉ sống sót trong điều kiện kèm theo nuôi nhốt vì cha mẹ chúng không sống gần nhau trong tự nhiên. Trước đây, khi đàn sư tử châu Á sinh sôi nhiều, chủ quyền lãnh thổ của sư tử và hổ có sự chồng chéo, do đó có những con sư hổ được sinh ra trong điều kiện kèm theo hoang dã. Đáng chú ý quan tâm là những con sư hổ thường lớn hơn những loài cha mẹ của chúng, trong khi những con hổ sư lại có size tương tự với hổ cái. [ 1 ]
Sư hổ Open tối thiểu từ đầu thế kỉ 1, ở Ấn Độ. Năm 1798, Étienne Geoffroy Saint-Hilaire ( 1772 – 1844 ) đã lai thành công xuất sắc giữa sư tử với hổ. Con sư hổ được biết đến gần đây nhất sinh ra cuối năm năm nay trong một gánh xiếc trình diễn dạo nước Nga. Zar, tên con sư hổ, có lông của một sư tử, nhưng trên mặt lại có rằn như một con hổ. [ 2 ]

Kích thước và sự tăng trưởng[sửa|sửa mã nguồn]

Sư hổ là loài lớn nhất thế giới thuộc họ Mèo.[1] Những cải thiện về gen có thể là yếu tố tạo nên kích thước khổng lồ của loài này.[3] Những gen này có thể có hoặc không thể hiện trên cha mẹ nhưng lại đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của con lai. Ví dụ, trên một số loài chó lai, những gen này giúp chúng lớn nhanh hơn loài bố mẹ. Sự sinh trưởng như vậy không thể hiện trên giống chó bố mẹ vì những gen này thường bị “mất tác dụng” do những gen được di truyền từ con cái của giống đó.[4]

Một số loài lai trong họ Mèo cũng hoàn toàn có thể đạt size tựa như như sư hổ : sư hổ sư ( litigon ) là con lai hiếm giữa sư tử đực với hổ sư cái, một con sư hổ sư cái tên là Cubanacan ( ở Vườn thú Alipore thuộc Ấn Độ ) đạt 363 kg ( 800 lb ). [ 5 ] Do sự khan hiếm của những con lai thế hệ thứ hai này nên khó mà xác lập được kích cỡ trung bình của sư hổ sư là lớn hơn hay nhỏ hơn sư hổ .

Do các vấn đề liên quan đến nội tiết tố, sư hổ khó mà phát triển đến cuối đời. Chúng mất nhiều thời gian để đạt đến kích thước trưởng thành đầy đủ. Sự tăng trưởng tiếp tục về chiều cao vai và chiều dài cơ thể là chưa được ghi nhận với sư hổ trên 6 năm tuổi. Sư hổ đực có thể đạt mức testosteron trung bình tương tự như sư tử đực trưởng thành, dù không có tinh trùng theo định luật H-W[6]. Ngoài ra, sư hổ cái cũng có kích thước khá lớn, cân nặng khoảng 320 kg (705 lb) và chiều dài trung bình là 3,05 m (10 ft). Ngược lại, pumapard là con lai giữa hai loài: báo sư tử (Puma concolor) và báo hoa mai (Panthera pardus) lại bị còi cọc.

Hercules và huấn luyện viên Bhagavan AntleCon sư hổ tên làvà huấn luyện viên Bhagavan Antle
Shasta, một con sư hổ cái sinh tại Vườn thú Hogle ở thành phố Salt Lake ngày 14 tháng 5 năm 1948 và chết năm 1972 ở tuổi 24. Năm 1973, Guinness đã ghi lại kỉ lục về con sư hổ đực 798 kg ( 1.759 lb ) ở Vườn thú Bloemfontein, Nam Phi năm 1888 .

Khả năng sinh sản[sửa|sửa mã nguồn]

Khả năng sinh sản của những con lai giống cái thuộc họ Mèo là khá tốt. Điều này tuân theo định luật Haldane: khi lai động vật mà giới tính được xác định bằng nhiễm sắc thể giới tính, nếu một giới vắng mặt, hiếm hoặc sterile thì đó là giới tính dị biệt (giới có hai nhiễm sắc thể giới tính khác nhau, ví dụ nhiễm sắc thể X và Y).

Năm 1943, một con lai 15 tuổi giữa sư tử và hổ đã giao phối thành công xuất sắc với một con sư tử ở Vườn thú Munich Hellabrunn. Con lai cái sinh ra, dù có yếu tố về sức khỏe thể chất nhưng cũng đã sống đến tuổi trưởng thành. [ 7 ]
Màu lông của sư hổSư hổ có những sọc vằn giống như hổ trên nền lông màu hung như sư tử. Những đặc thù khác của cha mẹ hoàn toàn có thể Open trên sư hổ nhưng một số ít đặc thù đó bị mờ nhạt khi sư hổ trưởng thành .

Sư tử lai với hổ cái bạch tạng cũng sinh ra sư hổ bạch tạng. Về mặt lý thuyết, những con sư tử bạch tạng có thể lai với hổ bạch tạng và sinh ra sư hổ bạch tạng, thậm chí không có sọc vằn. Chưa thấy sư hổ màu đen.

Chính sách vườn thú[sửa|sửa mã nguồn]

Giữ hai loài riêng biệt luôn luôn là quy trình tiêu chuẩn.[cần dẫn nguồn] Sự xuất hiện của sư hổ thường do sự cố trong quá trình nuôi nhốt.

  • Peters, G. “Comparative Investigation of Vocalisation in Several Felids” published in German in Spixiana-Supplement, 1978; (1): 1–206.
  • Courtney, N. The Tiger, Symbol of Freedom. Quartet Books, London, 1980.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post
Banner-backlink-danaseo

Bài viết liên quan