Chó, Nghê, Cẩu trong tâm linh và đời sống văn hóa người Việt Nam

Chó trong từ điển Tiếng Việt còn gọi là con muông, con cầy. Trong 12 con giáp dùng làm hình tượng cho chu kỳ luân hồi 12 năm trong lịch sử dân tộc Nước Ta, thì con chó ( Tuất ) đứng ở vị trí thứ 11. Trong số những vật nuôi trong nhà, chó đứng ở vị trí thứ 5 sau cả gà và dê. Được gắn bó lâu bền hơn, phổ cập, mang giá trị vật chất phong phú và mật thiết nên chó cũng tạo giá trị niềm tin nhiều mẫu mã, ảnh hưởng tác động sâu rộng đến tâm linh và đời sống văn hóa truyền thống – nghệ thuật và thẩm mỹ của người Nước Ta .

 

Chó trong truyền thuyết người Việt

Hình tượng con chó trong truyền thuyết thần thoại của người Việt được lưu truyền truyền kiếp và hình thành sớm nhất. Dân gian truyền rằng, bắt đầu An Dương Vương chọn đất Uy Nỗ ( Tó ) làm nơi kiến thiết xây dựng kinh đô, nhưng đàn chó của vua cứ kéo nhau sang đất Cổ Loa, trong đó có con chó quý tìm đến một khu gò đất lót ổ đẻ con, cho nên vì thế vua cho dời đô sang Cổ Loa, dựng hoàng cung ngay trên gò đất nơi chó đẻ. Với ý niệm “ đất chó đẻ là đất quý ” nên người dân Cổ Loa trước kia có tục làm nhà trên khu đất chó đẻ con .
Rồi tài liệu thần tích Ngọc phả cổ lục cũng cho biết rằng, bà mẹ vua Lý Công Uẩn tên Phạm Thị Trinh, khi đến thao tác ở chùa Tiêu Sơn, đêm nằm mơ thấy Thần Chó Đá rồi có mang mà sinh ra Lý Công Uẩn. Khi vua Lý Công Uẩn Open, con chó bằng đồng đã sủa inh ỏi, rồi vua Lý Công Uẩn lại sinh năm Tuất …
Chính vì cuộc sống lịch sử một thời của vị vua này luôn luôn tương quan đến Thần Chó mà khi định đô ở Thăng Long, việc lập miếu thờ chó ( Thần Cẩu Mẫu, Thần Cẩu Nhi ) để canh giữ, bảo vệ kinh thành là những giả thiết rất tương thích với quy luật lịch sử vẻ vang, toàn cảnh văn hóa truyền thống nước ta .

Trong tín ngưỡng của người Cơ Tu, con chó chính là vật tổ của họ. Truyền thuyết kể rằng, thuở xưa có một trận đại hồng thuỷ hủy hoại muôn loài. Chỉ còn một cô gái và một con chó sống sót nhờ trốn vào một chiếc trống. Cô gái sống cùng với con chó như vợ chồng, sinh ra hai người con, một trai, một gái. Lớn lên, người con trai xuống đồng bằng, người con gái ở lại miền núi. Cuối cùng hai người lại gặp lại và lấy nhau, sinh ra một quả bầu. Từ quả bầu đó, người Cơ Tu, người Bru, người Tà Oi, người Việt … sinh ra .
Truyền thuyết về ông tổ chó cũng còn thấy ở nhiều dân tộc bản địa khác ở Nước Ta như Xê Đăng, S’tiêng, Giẻ Triêng, Chăm, Dao, Lô Lô … Tuy nhiên, những truyền thuyết thần thoại và phong tục gắn với ông tổ chó ở người Dao là rõ ràng và rực rỡ nhất. Truyền thuyết kể rằng : “ Xưa kia có ông vua của người Dao không có con trai mà chỉ sinh được 12 người con gái. Một ngày kia giặc sang xâm lược, vua liền truyền rằng ai đánh thắng giặc vua sẽ gả cả cho 12 cô con gái, và vua cầu khấn trời để xin. Một buổi chiều Open 1 con Long khuyển ngũ sắc, là con chó mình rồng, 5 màu có 12 chiếc đuôi, chạy đến xin vua cho đánh giặc. Khi giặc đến thấy con chó lạ mắt liền bắt về nuôi, nó ngoan ngoãn theo về, đợi khi giặc ngủ say liền cắn cổ cho bọn giặc chết hết. Con chó trở lại, theo đúng lời hứa, vua liền gả những con gái cho con chó và con chó được vua truyền ngôi báu. Để nhớ ơn con chó đã có công dẹp giặc cứu dân tộc bản địa nên đồng bào đã thêu hình con chó và 4 chiếc chân chó ở sau áo ” .

Chó, nghê trong di chỉ khảo cổ, điêu khắc mỹ thuật và văn hóa tâm linh người Việt

Theo những nhà khảo cổ học từ thời kỳ đồ mới ông, cha ta đã nuôi chó, trong nhiều di chỉ khảo cổ thời kỳ này những nhà khảo cổ đã tìm được di cốt của loài chó thuần dưỡng. Chó trong di chỉ khảo cổ Đa Bút ( Thanh Hóa ) có niên đại cách đây khoảng chừng 6000 năm trước. Đó là di tích lịch sử chó nhà cổ nhất ở nước ta. Trống đồng trong văn hóa truyền thống Đông Sơn, cách thời nay khoảng chừng 2 nghìn – 2.500 năm, trên thuyền có 4 người và 1 con chó săn béo béo phì. Tượng chó bằng đồng có niên đại 3.000 năm cũng đã được phát hiện ở Dốc Chùa ( Tỉnh Bình Dương ). Hình khắc chó đón hươu trên rìu đồng tìm được ở nhiều nơi ở nước ta như Hà Tây, TP.HN, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa ..

Chó và ngựa là hai con vật trung thành tuyệt đối với chủ. Vì những đức tính ấy, chó được nuôi để giữ nhà cho chủ. Và, cao hơn, “thăng hoa sang lĩnh vực tâm linh, người Việt xưa tin rằng “chó sủa ma”, có thể xua đuổi được tà ma. Vì vậy ngày trước, ở cổng làng, cổng ngõ xóm mỗi làng Việt ở Bắc Bộ đều có tượng chó đá. Cả ở nhiều mộ táng cổ cũng vậy”. Chó đá canh giữ cho nơi thờ này thể hiện sự tôn nghiêm về mặt tâm linh. Chẳng hạn, tại di tích Đình làng Địch Vĩ, xã Phương Đình – Đan Phượng – Hà Nội, có thờ nhóm tượng chó đá. Nhóm tượng này gồm nhiều con, làm bằng đá xanh, có kích cỡ nhỏ khoảng 50 đến 60 cm, ước đoán được tạc thế kỉ XVIIITại đình và chùa ở Làng Phù Trung (nay là Trung Hiền), Hà Nội, trong khuôn viên của di tích có tượng chó đá. Tượng chó đá đặt trên bệ thờ ở góc bên trái của sân đình. Bệ thờ xây bằng gạch, trát xi măng, giữa đặt một hòn đá tảng chân cột của ngôi đình cũ. Tượng chó tạc bằng đá xanh ở tư thế ngồi, hai chân sau áp sát xuống đất. Thần thái tượng chó linh hoạt, mắt nhìn xa xăm, toàn thân cao một mét. Trước mặt tượng để bát hương, lễ vật đặt vào chân đá tảng hình tròn như cái mâm. Dân làng gọi là quan Hoàng Thạch.

Phủ thờ quận công Nguyễn Ngọc Trì ở làng Hát Môn, xã Hát Môn ( Phúc Thọ, TP. Hà Nội ) có 4 con chó đá, 2 con nghê đá, hàng loạt bằng đá xanh nguyên phiến. 4 con chó đá đặt trước và sau phủ gọi là thạch cẩu, hai chân trước đứng, chân sau như sắp nhổm lên sủa. Trước tượng chó đá có bát hương để thờ .

Ở Đình Ngọc Canh xã Tam Canh, huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc có bức tranh chạm gỗ “Đi săn” diễn tả đoàn người, ngựa đi săn trở về, với đòn gánh nặng trĩu buộc một chú nai. Chú chó săn đang nghển cổ hãnh diện dẫn đầu đoàn người về làng với tất cả niềm vui của thú săn bắn.

Sách Đại Nam nhất thống chí ghi lại:“Lăng Ngải Sơn: lăng Trần Hiến Tông, ở dưới núi xã An Sinh, người đá và voi đá, ngựa đá, hổ đá, dê đá, trâu đá nay vẫn còn”. Ngải Sơn lăng còn có tên gọi là An Lăng, hiện nay tọa lạc tại chân đồi khu Ao Bèo, thôn Trại Lốc, xã An Sinh, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh nằm trong Khu di tích nhà Trần ở Đông Triều có một tượng chó đá dài khoảng 60cm, nằm khoanh tròn chân, thu vào trong lòng, đầu gục xuống, đuôi công kéo dài xuống dưới. 

Ở Miền Trung, ở làng Phổ Trung, Phổ Đông ( xã Phú Thượng, Phú Vang ) chó đá cũng được thờ và đặt ngay đầu xóm, dưới bệ thờ có mái che, bên cạnh có đĩa dâng, nhang đèn. Dân hai làng ở đây cung kính gọi hai bức tượng chó đá là ngài “ Thiên cẩu ”. Những ngày rằm, mùng một người dân thường đến thắp nhang và cầu khấn .
Ở Nam Trung Bộ, tại Chùa Cầu ở Hội An ( Quảng Nam ) được kiến thiết xây dựng vào thế kỷ 17 có bốn câu đối chữ Hán, Nhà điều tra và nghiên cứu Nguyễn Bội Liên ( 1911 – 1996 ) đã tìm lại được những câu đối chữ Hán này tiềm ẩn nội dung thâm thúy :
Đôi câu đối chữ Hán ở phía cửa đông của cầu như sau :

Thiên cẩu song tinh an cấn thổ,
Tử vi lưỡng tỉnh định khôn thân.

Đôi câu đối chữ Hán ở cửa phía tây của cầu có nội dung :

Ngoạn nguyệt khách du châu vĩ điện,
Khán hoa nhân đáo mã đề lôi 

Tạm dịch :

Hai sao thiên cẩu ở yên nơi đất cấn
Hai tướng tử vi định được chốn quẻ khôn


Khách ngắm trăng thuyền nhanh như chớp
Người xem hoa vó ngựa sấm vang .
Vì được “ thăng hoa sang nghành tâm linh ”, chó đá được khắc đẽo với những cụ thể oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm tọa lạc trước điện thờ, hay bàn thờ cúng, ở những đình chùa, đền miếu … Nếu con chó là vật canh giữ của cải, nhà cửa cho người dân, thì nghê là con vật canh giữ về mặt ý thức, chống lại những thứ tà ma, hung thần quỷ ác. “ Bản thân chữ Nghê trong tiếng Hán gồm bộ Cẩu ( chó ) và chữ Nhi ( trẻ con ) hợp thành ”. Về mặt tạo hình, Nghê là con vật có bốn chân, “ có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, dáng thanh, trông rõ ràng dáng chó chứ không tròn mập như dáng sư tử ” .
Con Nghê thường được thấy qua những món đồ gốm cổ như : Tượng con Nghê, Bình đốt trầm hương trên bàn thờ cúng, Nậm rượu hình con Nghê, Chân đèn hình con nghê, Đĩa trang trí hình con nghê. Tiêu biểu như : Nghê thời Lý thế kỷ 17 làm bằng gốm ở chùa Cổ Chất, tỉnh Tỉnh Nam Định ; Nghê đá, thế kỷ 17, lăng Họ Ngọ, Hiệp Hòa, Bắc Giang ; Đôi nghê đá, thế kỷ 18, lăng Dinh Hương, Hiệp Hòa, Bắc Giang ; Nghê đá, thế kỷ 17, đền Gióng, Gia Lâm, TP.HN ; Hai linh vật nghê ở cổng chùa Lại yên được đắp khá mê hoặc. Nhưng có điểm khó hiểu và không dễ chịu nữa là sống lưng nghê đươc cắm đầy mảnh chai ( nhìn rất nguy hại ), chắc để ngăn trẻ con cưỡi .

Sang thời nhà Nguyễn ở Huế có hai con nghê trấn giữ trước cửa Hiển Nhơn, Đại Nội Huế; hai con nghê trên lăng Tự Đức; hai con nghê trên Điện Ngưng Hy lăng (Lăng Đồng Khánh); cặp  nghê trước cổng vào phủ Tuy Lý Vương; nghê đá ở Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong, Huế….Những con nghê trên lăng tẩm, điện đài Huế được tạo hình rất mềm mại, có nhiều răng, đuôi xòe như ngọn lửa thật oai vệ.

Ngoài ra, con Nghê còn được dùng để trang trí trong những ngôi đình cổ ở Nước Ta. Nghê được chạm trên cốn ( xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài ), hay được đạt trên đầu đao ( sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao ( mã tấu ) nên gọi là đầu đao ), như trên cốn đình làng An Hoà ( Hà Nam ), Phất Lộc ( Tỉnh Thái Bình ), cột đình làng Hội Thống ( TP Hà Tĩnh ) đầu đao đình làng Phù Lão ( Bắc Giang ), làng Trung Cần ( Nghệ An ), làng Tây Đằng ( Sơn Tây ) …
Có thể nói rằng, con chó đá đã đi từ đời sống hái lượm, sắn bắt vào đời sống nông nghiệp cây cối. Nó từ vật chất đi vào đời sống văn hóa truyền thống tâm linh của người Việt mấy nghìn năm nay. Rồi hình tượng con nghê cũng bắt nguồn từ chó đá và dần biến hóa qua từng thời kỳ để tương thích với nhu yếu tín ngưỡng của dân cư. Thế mà, trong những năm gần đây ta thường thấy những con sư tử ngoại lai đặt ở những trú sở, đền miếu, chùa chiền, những dinh thự lớn. Năm Mậu Tuất lại về, nhắc nhớ mọi người không nên sử dụng hình tượng, loại sản phẩm, linh vật trái với thuần phong, mỹ tục Nước Ta .
Năm mới chó đá, nghê đá, thạch cẩu sẽ trấn yểm trừ tà ma, giữ nhà, giữ cột mốc chũ quyền cho quốc gia thanh thản, xua đuổi dịch bịnh, cho những mùa màng xanh tươi, cơ quan, nhà máy sản xuất, nhà nhà an lành, thịnh vượng !

Rate this post

Bài viết liên quan