BỆNH GIUN ĐŨA Ở CHÓ – Bệnh viện thú y – Học viện Nông Nghiệp Việt Nam

5.7.1. Lịch sử phát hiện bệnh

Giun đũa Toxocara canis được tìm thấy ở chó từ thế kỷ 18, nhưng phải đến năm 1908 khi Nutall và Strickland C. tìm thấy 17 trong số 24 chó ở Cambridge ( Anh ) bị nhiễm loại ký sinh trùng này thì giun đũa T. canis mới mở màn được nghiên cứu và điều tra nhiều .
Trường hợp người bị nhiễm T. canis được miêu tả tiên phong bởi Wilder H.C. vào năm 1950. Đến năm 1958, Sprent J.F.A. đã nghiên cứu và điều tra vòng đời và chính sách truyền bệnh của giun đũa T. canis .

Ở Việt Nam, trước Cách mạng
tháng 8, Houdemer (1938) đã tìm thấy giun đũa ở chó Bắc Bộ. Năm 1975,
Capdevielle P. và cs. đã báo cáo về một trường hợp cổ chướng có tăng bạch cầu
ái toan ở một phụ nữ lớn tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh nhân sống ở nông
thôn, có tiền sử vàng da, uống rượu và nghiện hút thuốc lá nặng. Các tác giả
nghĩ đến nguyên nhân ký sinh trùng nhưng không biết loài nào, điều trị với Thiabendazole thì triệu chứng bệnh giảm
dần.

Cho đến nay, bệnh do giun đũa T. canis gây ra ở chó được chăm sóc điều tra và nghiên cứu nhiều vì tỷ suất chó nhiễm bệnh ngày càng cao, ở quy trình tiến độ ấu trùng có năng lực nhiễm và gây bệnh cho người .

5.7.2. Tác nhân gây bệnh

Bệnh do hai loài giun tròn là Toxocara canis, thuộc họ Anisakidae và Toxascaris leonina, thuộc họ Ascaridae gây nên. Giun ký sinh ở ruột non, dạ dày của chó, cáo, chó sói và nhiều loài ăn thịt khác .

Hình thái, cấu tạo

– Loài T. canis : giun màu vàng nhạt, đầu hơi cong về phía bụng ; có cánh đầu rộng, giữa thực quản và ruột có dạ dày nhỏ ( đây là đặc thù của họ Anisakidae ). Giun đực dài 5 – 10 cm, đuôi cong hơi tù, có cánh đuôi và một đôi gai giao hợp dài bằng nhau ( chiều dài 0,75 – 0,85 mm ). Giun cái dài 9 – 18 cm, đuôi thẳng .
Trứng giun hơi tròn, vỏ trứng lỗ chỗ như tổ ong, vỏ dày, màu vàng, size 0,08 – 0,085 x 0,064 – 0,072 mm .
– Loài T. leonina : giun có khung hình màu vàng nhạt, cánh đầu rất hẹp, hơi cong về phía sống lưng. Giun đực dài 4 – 6 cm, đuôi nhọn không tù như T. canis, không có cánh đuôi, có một đôi gai giao hợp dài bằng nhau ( dài 1,2 – 1,5 mm ). Giun cái dài 6,5 – 10 cm. Trứng giun hơi tròn, vỏ ngoài nhẵn, đường kính 0,075 – 0,085 mm .

Vòng đời

– Đối với loài Toxocara canis : giun cái sau khi thụ tinh đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, sau 5 ngày thành trứng có ấu trùng có sức gây bệnh. Khi chó nuốt phải trứng này, tới ruột non ấu trùng nở ra, theo máu về gan, khí quản, vào miệng rồi trở lại ruột non tăng trưởng thành giun trưởng thành. Một số ấu trùng sau khi vào phổi không vào phế quản mà vẫn theo đại tuần hoàn về những tổ chức triển khai làm thành kén, ấu trùng ở trong kén không chết và cũng không tăng trưởng. Nếu chó ăn phải kén có ấu trùng thì vào ruột, ấu trùng liên tục tăng trưởng thành giun trưởng thành. Ấu trùng hoàn toàn có thể truyền từ mẹ vào thai ( vật chứng là có những trường hợp chó sơ sinh đã có giun đũa trưởng thành ký sinh ) .
– Đối với loài Toxascaris leonina : trứng giun theo phân chó ra ngoài, gặp nhiệt độ và ẩm độ thích hợp, sau 3 ngày tăng trưởng thành trứng có sức gây bệnh. Chó nuốt phải trứng, trứng nở thành ấu trùng, sau 3 – 4 tuần tăng trưởng thành giun trưởng thành .

3. Dịch tễ học

Loài mắc bệnh

Bệnh thấy ở chó, cáo, chó sói và nhiều động vật hoang dã ăn thịt khác. Chó ở mọi lứa tuổi đều hoàn toàn có thể bị nhiễm giun đũa, tuy nhiên loài T. canis ký sinh nhiều hơn ở chó con, còn T. leonina ký sinh nhiều hơn ở chó 6 tháng tuổi trở lên. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó giảm dần theo tuổi ( chó sơ sinh đến 4 tháng tuổi nhiễm 53 %, 6 tháng – 1 năm tuổi nhiễm 25 %, trưởng thành nhiễm 12 % ) .
Chó ngoại và chó cái nhiễm giun đũa cao ( chó đực nhiễm 17 %, chó cái nhiễm 28 % ; chó ngoại nhiễm 40,6 %, chó nội nhiễm 28,1 % ) .
Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn ở chó nuôi tại TP.HN, Hoàng Minh Đức và Nguyễn Thị Kim Lan ( 2008 ) cho biết, chó nhiễm giun đũa T. canis là 20 %, T. leonina là 24,26 %, tỷ suất nhiễm giảm theo tuổi chó ( chó dưới 3 tháng tuổi nhiễm T. canis 40,86 %, 3 – 8 tháng tuổi nhiễm 25,89 %, 8 – 12 tháng tuổi nhiễm 12,39 % ; so với loài T. leonina : chó dưới 3 tháng tuổi không thấy nhiễm, chó 3 – 8 tháng tuổi nhiễm 33,9 %, 8 – 12 tháng nhiễm 42,1 %, trên 12 tháng nhiễm 19,2 % ) .
Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó tại xã Sơn Nga, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ của Dương Đức Hiếu và cs ( năm trước ) cho biết, chó nhiễm Toxocara spp. là 66,67 %
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan và cs ( năm ngoái ) cho biết, chó ở Phú Thọ nhiễm T. canis qua mổ khám là 28,57 % ; cường độ nhiễm 1 – 6 giun / chó .

Chất chứa mầm bệnh

Trứng giun đũa có trong phân của chó và những động vật hoang dã mắc bệnh khác. Từ phân, trứng hoàn toàn có thể phát tán và được tàng trữ trong đất, nước và lẫn vào thức ăn, nước uống của chó, người …

Phương thức truyền lây

Chó hoàn toàn có thể nhiễm giun đũa T. canis qua 3 đường : qua thức ăn, nước uống ; ăn thịt chó còn sống có kén mang ấu trùng ; qua bào thai. Người nhiễm đa phần do nuốt phải trứng giun đũa chó qua thức ăn, nước uống, hoặc qua tiếp xúc với chó ( bồng bế chó )
Trứng giun đũa có sức đề kháng mạnh, hoàn toàn có thể tăng trưởng được trong những dung dịch clorua thuỷ ngân, sunfat đồng nồng độ cao .

Cơ chế sinh bệnh

Ở chó

Ấu trùng di hành làm tổn thương một số ít cơ quan, tổ chức triển khai ( gan, phổi, mạch máu … ). Nếu nhiều giun trưởng thành ký sinh thì gây tắc ruột, có khi thủng ruột. Giun chui vào ống dẫn mật làm tắc ống dẫn mật, chó hoàn toàn có thể chết .
Ấu trùng giun còn mang vi trùng đến những cơ quan, tổ chức triển khai gây viêm .

Ở người

Giun đũa Toxocara spp. trưởng thành ký sinh ở chó, sau khi thụ tinh đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện kèm theo thuận tiện tăng trưởng thành trứng có sức gây bệnh. Người hoàn toàn có thể nhiễm ấu trùng giun đũa Toxocara spp. do ăn phải thức ăn, nước uống có lẫn trứng có sức gây bệnh hoặc do dùng tay bị ô nhiễm trứng có sức gây bệnh cầm thức ăn ăn .
Vào khung hình người, trứng Toxocara spp. giải phóng ra ấu trùng, ấu trùng này di hành đến mắt hoặc những cơ quan khác trong khung hình ( như não, mắt, những cơ quan nội tạng ) và gây tai hại cho khung hình người .

4. Bệnh ở chó

 Triệu chứng

Con vật gầy còm, chậm lớn, thiếu máu ăn kém, nôn mửa, táo bón, sau ỉa chảy. Bụng chướng to, lông xù. Có khi có triệu chứng giống thần kinh như động kinh hay bệnh dại .

Bệnh tích

            Xác chết gầy, lông xung quanh hậu môn dính phân bẩn. Mổ khám thấy nhiều giun đũa ở ruột non, có thể thấy giun tập trung thành búi, gây tắc ruột. Ruột non viêm cata, có nhiều điểm xuất huyết.

Chẩn đoán bệnh

Đối với chó còn sống : xét nghiệm phân bằng giải pháp phù nổi tìm trứng giun đũa. Phân biệt trứng của hai loài giun trên, đồng thời theo dõi triệu chứng lâm sàng của con vật .
Đối với chó đã chết : mổ khám tìm giun đũa ở ruột non và dạ dày chó .

5. Bệnh ở người

Cortés N. N. và cs. ( năm ngoái ) đã kiểm tra 183 mẫu huyết thanh của trẻ nhỏ 3 – 16 tuổi tại Amecameca và Chalco thuộc México. Kết quả cho thấy, có 22 mẫu dương thế với T. canis, chiếm tỷ suất 12,02 %. Trong đó có 6,50 % số bé trai và 5,4 % số bé gái dương thế với bệnh do giun T. canis gây ra .
Borecka A. và Kłapeć T. ( năm ngoái ) cho biết : Tại Ba Lan, quá trình từ năm 1994 – 2005, kiểm tra 18.367 mẫu huyết thanh của người hoài nghi bị nhiễm Toxocara, tác dụng cho thấy tỷ suất mẫu huyết thanh dương tính dịch chuyển qua những năm điều tra và nghiên cứu từ 1,8 – 76 %. Trong quá trình từ năm 1978 – 2009, đã ghi nhận 1.022 trường hợp bộc lộ những triệu chứng lâm sàng của bệnh .
Antolová D. và cs. ( năm ngoái ) đã kiểm tra 429 mẫu huyết thanh người dân tộc bản địa Roma sống thành quần thể riêng thuộc Đông Slovakia, thấy 22,15 số mẫu dương thế với T. canis. Triệu chứng của những người bị bệnh gồm có : nhức đầu, đau cơ bắp, tiêu chảy và có những triệu chứng giống bệnh cúm ( ho, sốt không bình thường khó thở … ) .

Triệu chứng

Người nhiễm ấu trùng giun đũa chó có bộc lộ lâm sàng rất phong phú, khó xác lập, nhờ vào nhiều vào số lượng, vị trí ký sinh của ấu trùng và phân phối của khung hình người bị nhiễm. Gồm có hai nhóm triệu chứng chính :
– Hội chứng ấu trùng chuyển dời nội tạng, có những triệu chứng chung như : căng thẳng mệt mỏi, ăn kém, thể trạng yếu, sốt không bình thường và có dạng dị ứng ( nổi mẩn ngứa, nổi ban, mề đay … ). Tuy nhiên, những biểu lộ lâm sàng mặc dầu là nổi bật, cũng rất dễ nhầm với những bệnh khác .
– Bệnh ấu trùng giun đũa chó ở mắt : bệnh có triệu chứng giảm thị lực, viêm mắt hoặc gây ảnh hưởng tác động có hại đến võng mạc. Thông thường thì mắt nào có ấu trùng ký sinh mới biểu lộ triệu chứng của bệnh .
Ngoài ra, ít gặp nhóm thứ ba là bệnh “ Toxocara spp. đổi khác ” ( Convert Toxocariosis ). Trường hợp này thấy ở những bệnh nhân có huyết thanh chẩn đoán giun đũa chó dương thế phối hợp với một số ít triệu chứng hay tín hiệu lâm sàng có tính mạng lưới hệ thống và khu trú ở một số ít vùng nhất định của khung hình nhưbụng ( đau bụng ), thần kinh ( khiếm khuyết về tinh thần, động kinh ), phổi ( suyễn ), da ( dị ứng lê dài ) .
Theo Iddawela D. R. và cs. ( 2003 ), ấu trùng giun đũa Toxocara canis ký sinh ở người gây ra thực trạng đau bụng ( 45 % ), ho ( 30 % ), đau mình mẩy ( 23 % ), nổi mề đay ( 20 % ) .
giun ở dạ dày của chó. Niêm mạc ruột non viêm cata, có nhiều điểm tụ huyết và xuất huyết .

Chẩn đoán

Do ấu trùng giunToxocara spp. không tăng trưởng được thành dạng trưởng thành và không có năng lực sinh sản ở người, nên khi xét nghiệm phân người sẽ không chẩn đoán được bệnh. Chỉ hoàn toàn có thể chẩn đoán bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người bằng chiêu thức huyết thanh học để phát hiện kháng thể kháng Toxocara spp. trong máu người ( hoàn toàn có thể sử dụng kỹ thuật ELISA để chẩn đoán bệnh ở người ) ..

6. Phòng, trị bệnh

8.1.
Tẩy giun đũa cho chó

Có thể tẩy giun đũa cho chó bằng một trong những thuốc sau :
Piperazin hydrat : liều 100 – 150 mg / kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn .
Piperazin citrat : liều 150 mg / kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn .
Piperazin adipate : liều 100 mg / kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn .
Levamisol : liều 15 – 20 mg / kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn .
Hiệu quả tẩy rất cao và bảo đảm an toàn .
Mebendazol : liều 90 – 100 mg / kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn .
Thuốc bảo đảm an toàn và hiệu suất cao cao .
Hoàng Minh Đức và Nguyễn Thị Kim Lan ( 2008 ) đã sử dụng thuốc levamisol, liều 15 mg / kg TT để tẩy giun đũa cho chó, hiệu quả cho thấy, thuốc có hiệu lực thực thi hiện hành tẩy đạt 86,66 %, trong khi dùng thuốc sanpet ( liều 25 mg / kg TT ), hiệu lực hiện hành tẩy giun đũa và những giun tròn khác đạt 93,33 % .

8.2.
Điều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó cho người

Điều trị nội khoa : Phần lớn những trường hợp mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người mức độ nhẹ có triệu chứng không rõ ràng, thế cho nên bệnh nhân thường không đến khám và diều trị tại những cơ sở y tế. Sau đó, bệnh hoàn toàn có thể tự khỏi sau vài tuần hoặc vài tháng. Vấn đề điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng thường được vận dụng so với những trường hợp người mắc bệnh nặng như tổn thương ở phổi, não, tim, hoặc ngứa ngáy, nổi mề đay nặng Có thể sử dụng một trong những thuốc sau :
Albendazole : liều 10 – 15 mg / kgTT / ngày x 15 – 21 ngày .
Mebendazole : liều 100 mg x 2 lần / ngày x 3 ngày ( thuốc này không khuyến nghị dùng cho trẻ dưới 2 tuổi ) .
Thiabendazole : 50 mg / kgTT / ngày, chia 2 lần x 7 ngày, không vượt quá 3 gam / ngày .
Dietylcarbamazine : 6 mg / kgTT / ngày, chia 3 lần x 10 ngày ( thuốc này không khuyến nghị dùng cho trẻ nhỏ ) .

 Điều trị
ngoại khoa: Biện pháp điều trị ngoại khoa được đặt ra đối với những trường
hợp bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở mắt.  

Trần Trọng Dương ( 2013 ) đã sử dụngalbendazoleđiều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người tại 2 xã thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Tỉnh Bình Định, với liều 10 mg / kg / ngày ở trẻ nhỏ ( 5 – 15 tuổi ) và 15 mg / kgTT / ngày ở người lớn ( trên 15 tuổi ) trong 21 ngày. Kết quả sauđiều trị 1 tháng cho thấy, những triệu chứng lâm sàng đều giảm đi rõ ràng : mẩn ngứa ( 37,3 % – 4 % ), nổi mề đay ( 4,7 % – 0,8 % ), đau mình mẩy ( 19 % – 0 ), đau bụng ( 6,4 % – 1,6 % ), đau đầu ( 8,7 % – 0 ), sốt ( 4 % – 0 ), rối loạn tiêu hóa ( 6,4 % – 0,8 % ), những triệu chứng khác chiếm 13,5 % – 1,6 % ; những xét nghiệm cận lâm sàng cũng cho thấy 96,0 % số bệnh nhân có bạch cầu ái toan giảm đến mức số lượng giới hạn thông thường .

8.3. Phòng và kiểm soát bệnh

            Tăng cường quản lý đàn chó:
không thả rông chó; nuôi chó nhốt trong cũi (chuồng), vệ sinh thức ăn và nước uống
cho chó; định kỳ cọ rửa, tiêu độc cũi và nền chuồng.

Để phòng nhiễm ấu trùng giun đũa chó, người cần thực thi tốt việc ăn chín uống sôi, không tiếp xúc trực tiếp với chó, không bề bồng chó .
TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Quyên, Nguyễn Thị Ngân, Bùi Chí
    Vinh, Bùi Văn Dũng (2015). “Tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa ở chó tại
    thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập XXII. Số
    4 – 2015, tr 68 – 75.
  2. Dương Đức Hiếu, Bùi Khánh Linh, Sử Thanh Long
    (2014), “Bước đầu nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường
    tiêu hóa của chó tại xã Sơn Nga, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập
    XVIII. Số 8 – 2014.
  3. Lê Văn Đoan, Võ Hữu Hội (2008), “Nhân 02 trường hợp nhiễm ấu trùng
    giun đũa chó nội tạng được chẩn đoán và điều trị tại Khoa Nhi BV Đà Nẵng”, Nguồn:
    http://khoanhidanang.com.vn/detail.php?dm=1&id=5.
  4. Huỳnh Hồng Quang (2008), Toxocara
    canis và Toxocara cati một bệnh
    gây ra do ký sinh trùng,
    Nguồn: http://news.bacsi.com/kien-thuc/chuyen-khoa/toxocara-canis-va-toxocara-cati-mot-benh-gay-ra-do-ky-sinh-trung.
  5. Antolová D., Jarčuška P., Janičko
    M., Madarasová-Gecková A., Halánová M., Čisláková L., Kalinová Z. Reiterová K.,
    Škutová M., Pella D., Mareková M. (2015), “Seroprevalence
    of human Toxocara
    infections in the Roma and non-Roma populations of Eastern Slovakia: a
    cross-sectional study”, Epidemiol Infect,
    143(10), pp. 2249 – 2258.
  6. Borecka
    A., Kłapeć T. (2015), “Epidemiology of human toxocariasis in Poland – A review of
    cases 1978 – 2009”, Ann Agric Environ Med., 22(1), pp. 28 – 31.
  7. Cortés
    N. N., Núñez C. R., Guiliana B. G., García P. A., Cárdenas R. H. (2015), “Presence of anti-Toxocara canis
    antibodies and risk factors in children from the Amecameca and Chalco regions
    of México”, BMC Pediatr, 15 (65).
  8. Despommier D. (2003). “Toxocariasis: clinical aspects,
    epidemiology, medical ecology, and molecular aspects”. Clin Microbiol Rev, 16 (2), pp. 265 – 272.
  9. Holland, Celia and Smith
    H.V. (2006) Toxocara: The Enigmatic
    Parasite. Wallingford, UK and Cambridge, MA: CABI Publishing,
  10. Iddawela
    D. R., Kumarasiri P. V., de Wijesundera M. S. (2003), “A seroepidemiological study of
    toxocariasis and risk factors for infection in children in Sri Lanka”, Southeast
    Asian J Trop Med Public Health, Vol. 34, No. 1, pp. 7 – 15.
  11. Marty,
    Aileen (2000). Toxocariasis Chapter 27, pages 411- 421 in Meyers WM, Neafie RC,
    Marty A. M., Wear D. J. (Eds) Pathology of Infectious Diseases Volume I:
    Helminthiases. Armed Forces Institute of Pathology, Washington DC.;http://www.afip.org/cgi-bin/description.cgi?item=FS28.

Source: thucanh.vn
Category: Chó cảnh

Rate this post

Bài viết liên quan