kỹ thuật nuôi trăn
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.29 KB, 18 trang )
Bạn đang đọc: kỹ thuật nuôi trăn – Tài liệu text
Kỹ thuật nuôi trăn
I. Giống và đặc điểm giống:
Trăn thường sống theo cặp, nơi râm mát, ẩm ướt… ; ngủ nghỉ ban ngày, ban
đêm hoạt động và kiếm ăn. Mùa đông, trăn thường tìm nơi ấm áp để ngủ
đông, các mùa khác kiếm ăn, sinh trưởng, phát triển và sinh sản. Thức ăn
của trăn bao gồm các loại động vật máu nóng. Trăn có tập tính ăn mồi cử
động, bắt mồi bằng cách đớp, ngoạm, rồi cuộn ép con mồi cho đến chết mới
nuốt. Răng trăn cong vào trong và nhờ cấu tạo của xương hàm mở rộng nên
có thể nuốt được những con mồi lớn. Quá trình sinh trưởng, phát triển phải
trải qua những lần lột da. Sự lột da không diễn ra theo một chu kỳ nhất định.
Trăn lột da nhằm rũ bỏ lớp da cũ, già cỗi, chật chội, tạo điều kiện cho tế bào
mới phát triển tốt hơn. Khi sắp lột da, trăn không ăn mồi, tính trở nên hung
dữ, da chuyển từ màu sẫm sang màu trắng, thích chỗ yên tĩnh hay trầm
mình trong nước. Lớp da mới mang màu sắc đẹp, mềm bóng. Sau 20 ngày
da trăn trở lại bình thường, trăn khỏe và lớn nhanh
II. Chọn giống:
Căn cứ gia phả: Về khả năng sinh trưởng, phát triển, sinh sản, về thức ăn và
chăm sóc nuôi dưỡng… của thế hệ trước.
Căn cứ bản thân: Về khả năng sinh trưởng, phát triển, sinh sản, về thức ăn
và chăm sóc nuôi dưỡng… của bản thân cá thể. Chọn những con lớn nhất,
lanh lợi, siêng bắt mồi, thân hình dài, màu sắc đẹp, da bóng…
III. Chuồng nuôi:
Chuồng nuôi thường là hình hộp chữ nhật, có bộ khung bằng gỗ hoặc sắt
thép, xung quanh là lưới thép, có lỗ nhỏ hơn đầu trăn, cửa ra vào ở mặt
trước chuồng và có khoá. Kích thước của chuồng có chiều dài tối thiểu bằng
chiều dài tối đa của trăn, chiều rộng và chiều cao có tỷ lệ tương ứng cho phù
hợp với sự hoạt động của trăn và việc chăm sóc nuôi dưỡng. Chuồng nuôi
cách mặt đất 30-50cm để dễ dàng vệ sinh Với kích thước chuồng 3m x 1m
x 1m, có thể nuôi 10 con trăn từ 1-2 tháng tuổi cho tới lúc bán thịt, thường
là 1-2 năm, hiệu quả kinh tế cao. Nếu nuôi lâu hơn, trăn lớn hơn thì tăng
thêm kích thước chuồng nuôi. Chuồng nuôi phải có máng nước cho trăn
uống.
Cũng có thể rào lưới thép hoặc xây tường xung quanh một khoảng vườn.
Trong vườn chia làm 3 phần: Một phần nhà có mái che mưa nắng, nền
chuồng láng xi măng dốc từ 4-6 độ, thay cho hang động tự nhiên để trăn trú
ngụ, một phần có cây xanh bóng mát, một phần là hồ nước có độ sâu 20-
40cm để trăn ngâm mình tắm mát và uống nước.
IV. Thức ăn và khẩu phần ăn:
Thức ăn cho trăn bao gồm các loại động vật máu nóng như chó mèo, gà, vịt,
ngan, ngỗng, thỏ, chuột hoặc thịt gia súc, gia cầm hay phế phụ phẩm giết
mổ gia súc, gia cầm, trong đó chuột là mồi trăn thích nhất. Trăn có tập tính
ăn mồi cử động, muốn trăn ăn mồi không cử động thì phải tập hay dùng que
đung đưa mồi thì trăn mới ăn (đớp).
Khẩu phần thức ăn: Trăn dưới 6 tháng tuổi, định lượng thức ăn bằng 30%
trọng lượng cơ thể/tháng, chia làm 7-10 lần; trăn trên 6 tháng đến 1 năm
tuổi, định lượng thức ăn bằng 20% trọng lượng cơ thể/tháng, chia làm 5-6
lần; trăn trên 1 năm tuổi, định lượng thức ăn bằng 10% trọng lượng cơ
thể/tháng, chia làm 2-4 lần.
Nước uống: Tốt nhất nên cung cấp đầy đủ nước sạch và mát cho trăn tắm và
uống tự do.
V. Chăm sóc nuôi dưỡng:
Trăn đực, trăn cái phải nuôi riêng để tiện theo dõi, quản lý, chăm sóc nuôi
dưỡng…
Quá trình sinh trưởng, phát triển phải trải qua những lần lột da. Sau khi lột
da nếu được cung cấp thức ăn đầy đủ, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, tốc độ tăng
trưởng của trăn có thể tăng nhanh hơn 2-3 lần.
Tuổi thành thục sinh dục của trăn trên hai năm. Trăn động dục theo mùa,
thường từ tháng 3-8 âm lịch, trăn nuôi nhốt có thể muộn hơn… Khi động dục,
trăn cái, bò tới bò lui tìm chỗ trống chui ra tìm đực, đồng thời tiết ra chất
dịch có mùi đặc trưng để báo hiệu và quyến rũ trăn đực. Đây là thời điểm
phối giống thích hợp, cho trăn đực và trăn vào chung một chuồng, chúng sẽ
quấn quýt, xoắn chặt với nhau và giao phối 2-3 giờ liền.
Trăn mang thai trên 3 tháng thì đẻ trứng. Trước khi trăn đẻ, phải chuẩn bị ổ
đẻ (bằng rơm rạ, vải vụn…), chuồng nuôi phải sạch sẽ, yên tĩnh, tránh mùi
lạ Trăn đẻ 10-100 trứng, trăn lớn đẻ nhiều, trăn nhỏ đẻ ít nhưng kích thước
và trọng lượng quả trứng thường tương đương nhau, trung bình mỗi trứng
nặng 100-130g, thời gian đẻ kéo dài một vài giờ đến một vài ngày.
Đẻ xong, trăn cái khoanh tròn thành ổ, đầu ngóc lên chính giữa vừa ấp trứng
vừa quan sát trong suốt thời gian ấp. Trong thời gian ấp, cho trăn ăn từ từ,
không cho ăn nhiều một lúc, thức ăn dồn cục khó tiêu.
Trứng được ấp liên tục 60 ngày thì nở, tỷ lệ nở 40-80%. Khi trứng đến thời
kỳ nở, chúng ta có thể lấy ra cho vào khay nở tự tạo. Khay nở tự tạo có nhiệt
độ tương đương với nhiệt độ của ổ ấp để trứng tiếp tục nở. Khi nở, trăn con
dùng đầu và thân tách khỏi vỏ trứng chui ra. Trứng chưa nở không nên xé
vỏ, xé vỏ sớm trăn nở ra khó nuôi.
Trăn con mới nở có trọng lượng trung bình 100g, dài 40-60cm. Sau khi ra
khỏi vỏ trứng, trăn con bắt đầu vận động và làm quen với môi trường sống
mới. Sau khi nở 10-15 ngày có thể cho trăn con ăn hỗn hợp thức ăn xay
nhuyễn (thịt heo, bò, vịt, gà, cá, các loại khoảng 100g, 25g sữa, một quả
trứng và sinh tố (nếu có), bơm vào miệng cho trăn (đầu bơm phải gắn ống
cao su mềm), mỗi ngày vài ba lần. Trên 10 ngày tuổi có thể băm nhỏ mồi rồi
dùng tay đút cho trăn ăn. Khi cho trăn ăn, một tay nắm phần cổ lần lần tới
phần đầu, bóp nhẹ cho hàm răng trăn con mở ra, tay kia cầm thức ăn đưa
vào miệng giữ yên một lúc, khi trăn con há miệng lần nữa thì tiếp tục đẩy
thức ăn vào thật sâu để trăn con không nhả thức ăn ra. Sau 1 tháng trăn bắt
đầu tập săn mồi nhỏ như ếch, nhái, chuột con… Nếu được chăm sóc nuôi
dưỡng tốt, ăn uống đầy đủ, một năm trăn có thể đạt chiều dài 2-2,5m, nặng
5-10kg. Tuổi thọ trung bình của trăn 15-20 năm.
Trong mỗi chuồng nuôi trăn nên để một máng nước sạch và mát cho trăn
uống, đồng thời tăng thêm độ ẩm khi thời tiết hanh khô, vì nếu hanh khô quá
trăn chậm lớn và da bị hỏng.
Ðịnh kỳ 5-7 ngày vệ sinh chuồng trại một lần, lau chùi sạch sẽ những chất
thải cho khỏi hôi hám, ruồi nhặng không bu bám đem theo mầm bệnh. Trời
ấm thì phun nước tắm rửa cho trăn, cọ chuồng sạch sẽ, trời lạnh và ẩm
không nên tắm cho trăn, chỉ vệ sinh khô, mùa đông cần che chắn xung
quanh chuồng cho trăn ấm.
Có thể dùng xà bông để vệ sinh chuồng trại nhưng phải xả lại nhiều lần bằng
nước sạch để không còn mùi lạ. Nếu nuôi thả trong vườn thì phải dọn dẹp lá
cây khô, cỏ dại thường xuyên. Khi vào chuồng trăn phải luôn đề phòng trăn
tấn công…
VI. Công tác thú y:
Trăn là động vật hoang dã mới được thuần hóa, sức đề kháng cao, ít dịch
bệnh. Tuy nhiên, trăn cũng thường bị một số bệnh như:
– Viêm tấy hàm răng: Mới đầu thấy răng đen, có rỉ, viêm tấy nhỏ màu đỏ,
sau chuyển thành màu trắng, có mủ, rụng răng, hàm sưng không ăn được rồi
chết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp như
Ampicyline, Tetracyline hoặc (Peniciline + Streptomycin)…
– Sưng phổi: Trăn biếng ăn, bỏ ăn rồi chết. Điều trị bằng kháng sinh tổng
hợp.
– Táo bón: Dùng thuốc tẩy dạng dầu bơm vào lỗ huyệt, có khi phải dùng
ngón tay móc phân cục ra. Cho ăn thức ăn nhuận tràng…
– Viêm cơ dưới da: Dưới lớp da nổi những mụn nước nhỏ bằng hạt ngô, hạt
đậu, trăn biếng ăn, không ăn rồi chết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và
chích kháng sinh tổng hợp…
– Ký sinh trùng đường ruột: Trăn còi cọc, chậm lớn, trong phân có ấu trùng
giun, sán. Đây là bệnh phổ biến gây tác hại nhiều, nguyên nhân do cho ăn
uống không hợp vệ sinh. Dùng thuốc xổ sán lãi cho trăn uống.
– Ký sinh trùng ngoài da: Ve (bét) bám trên da hút máu và truyền bệnh cho
trăn. Dùng thuốc sát trùng chuồng trại sạch sẽ.
– Chấn thương cơ học: Chấn thương nhỏ thì bôi thuốc sát trùng, chấn thương
lớn phải khâu, da trăn có khả năng tái sinh nhanh sẽ chóng lành.
Phòng bệnh tổng hợp là biện pháp phòng bệnh tốt nhất cho trăn: Chăm sóc
nuôi dưỡng tốt, ăn uống sạch sẽ, thức ăn đảm bảo thành phần và giá trị dinh
dưỡng, chuồng trại luôn sạch sẽ, không lầy lội, không nóng quá, lạnh quá,
không có mùi lạ, tránh ruồi nhặng và các loài côn trùng khác gây hại cho
trăn. Đặc biệt, khi môi trường sống thay đổi phải chăm sóc nuôi dưỡng thật
chu đáo để phòng và chống stress gây hại cho trăn.
Kỹ thuật nuôi Trăn
Mấy năm qua, cùng với phong trào nuôi trồng thuỷ sản, bà con đang phát
triển nuôi một số thuỷ đặc sản: ba ba, rắn, trăn, cá sấu… tạo ra đối tượng
nuôi ngày càng phong phú, giá trị thu nhập cao. Giúp bạn đọc- những người
đang nuôi trăn có thêm kiến thức, tập hợp kinh nghiệm trong dân và bản
thân trong quá trình chỉ đạo xin giới thiệu tới bạn đọc kinh nghiệm nuôi trăn.
I. Đặc điểm sinh học
– Trăn có nhiều loại khác nhau: bao gồm trăn đất, trăn gấm, trăn biến dạng. Song hiện
nay nhân dân phát triển nuôi nhiều nhất là trăn gấm. Trước đây là loại trăn hoang dã,
sống thành từng bầy trong các rừng vùng Cà Mau, Kiên Giang; ngày nay được thuần
hoá nuôi trong các gia đình, tạo thành vật nuôi thông dụng hiền lành, gần gũi với con
người.
– Trăn là loài ăn thịt, thức ăn chủ yếu là chuột, gà, vịt, thỏ, cá, chim… Trăn
thích ăn vật sống; nếu luyện chúng cũng quen ăn vật chết. Trăn ăn chủ yếu là
nuốt, không cắn xé và nghiền các con vật khác.
Răng sắc, quặp, chủ yếu là giữ mồi: trăn không có nọc độc, cắn không gây hại.
– Từ 1 đến 20 ngày ăn 1 lần; có khả năng chịu đói hàng tháng.
– Trăn đẻ ra trứng, ấp nở thành con. Trăn cái có gai nhỏ, thân mập, đuôi nhỏ;
trăn đực có 2 gai giao cấu, đuôi dài và thuôn. 2 tuổi trăn có thể sinh sản, mỗi
trăn có thể đẻ 1 quả trứng/1kg trọng lượng.
– Trăn sống và phát triển ở vùng nhiệt độ nóng. Dưới 15 độ C trăn không ăn,
nằm yên chống rét, nhiệt độ ấm trở lại bắt đầu ăn. Trăn thường lột da, sau kì
lột da trăn ăn và lớn nhanh.
II. Kỹ thuật nuôi
1. Làm chuồng nuôi
– Chuồng nuôi nên làm bằng sắt (xây xi măng cũng bị trăn phá hỏng). Qua thực tế rút ra
nguyên tắc: Trăn rất khoẻ, nếu chui được đầu thì sắt 8-12 li đều bị bẻ gãy, hoặc xây
bằng xi măng thì chúng cữ theo thành tưởng mà bò đi mất. Do đó làm chuồng phải bảo
đảm “đầu không xuôi, đuôi không lọt”:
+ Trăn nhỏ: 0,5 x 0,4 x 0,4m.
+ Trăn nhỡ: 0,6 x 0,5 x 0,4m.
+ Trăn to: 1,2 x 0,8 x 0,5m.
– Chuồng 1 tầng hoặc 2 – 3 tầng:
+ Tầng trên nuôi trăn nhỏ: 0,5×0,4×0,4m.
+ Tầng dưới nuôi trăn to: 1×0,8×0,4m.
2. Giống nuôi
– Trứng sau khi ấp 58-60 ngày nở ra trăn con. Cho trăn con ăn gà con, chuột nhỏ, chim
cút nhỏ. Cần nuôi trong chuồng nhỏ, mật độ 20-25 con/m2. Sau 3-5 ngày cho trăn ăn:
dùng gà con hoặc chuột sống nhử cho trăn đớp ăn, rồi kéo lên thả ra ngoài cho trăn
nuốt mồi, sau đó đỡ nhẹ bắt thả vào chuồng.
– Cứ 3-5 ngày cho trăn ăn một lần. Khi trăn lớn, để mồi bên ngoài cho nuốt
sống. Lương thực ăn tăng theo tuổi: 2 tháng tuổi cho ăn 2 con gà (hoặc 2
chuột nhỏ), 3 tháng tuổi cho ăn 3 con gà nhỏ. Đối với trăn khi còn nhỏ nếu 7-
10 ngày mà không cho ăn thì khi cho thức ăn vào chuồng, trăn sẽ tranh nhau
ăn, dễ làm chúng bị thương.
– Phải có máng chứa nước cho trăn uống hoặc tắm mình cho dễ lột xác.
Thường ngày phải dọn sạch phân trong chuồng, số phân thải ra không nhiều,
phân khô, ít gây mùi thối: khoảng 5-7ngày, xả nước một lần.
– Sau khi nuôi 4-5 tháng, trâưn dài 0,08m, nên chọn nuôi riêng thành chăn
thịt.
3. Nuôi trăn thịt
Chọn trăn giống khoẻ mạnh, thân hình sống, không dị tật; con cái mập, đuôi nhỏ; con
đực đuôi to và thuôn.
– Trăn đưa vào chuồng 5-7 ngày cho ăn một lần, thức ăn là gà hoặc chuột, chim cút
sống. Có thể luyện cho trăn ăn các con vật mới chết, chú ý không cho ăn chuột chết hay
bị đánh bả.
+ Trăn bắt mồi và quấn chặt làm cho con mồi chết rồi mới nuốt, trăn nuốt mồi chứ không
cắn xé như một số con vật khác. Trăn lớn có thể nuốt con vật 1 kg và nằm ngủ cả tháng
mới lại ăn tiếp.
+ Trăn dễ nuôi, 20 ngày đến 1 tháng cho ăn 1 lần vào lúc nào cũng được, đái ỉa ít nên ít
tanh hôi; chuồng nuôi đơn giản, chi phí thấp, diện tích nuôi không cần rộng.
– Trăn nuôi 1 năm có thể tăng 10-15kg nếu chăm sóc tốt. Hệ số thức ăn: 4-5kg cho 1kg
tăng trọng.
– Mật độ thả: 4 – 5 con/m2.
4. Chất lượng và sản phẩm
– Thịt trăn được chế biến thành nhiều mặt hàng. Da trăn có thể làm ví, cặp, đồ nữ trang.
Mỡ trăn dùng chữa bỏng, bôi vào vết ngứa trên da; các vết thương đang chảy máu sẽ
cầm máu ngay. Mật trăn ngâm rượu dùng xoa bóp những chỗ đau nhức.
– Có thể pha tiết trăn với rượu, uống mát, bổ. Thịt, xương, da trăn nấu cao dùng cho
người già, trẻ em, phụ nữ rất tốt.
– Trăn cũng là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Trung Quốc, Nhật Bản… nhập
trăn làm thực phẩm và thuốc quý…
Kỹ thuật nuôi trăn
Cập nhật ngày: 16/12/2012 18:18:58
Trăn là loài động vật dễ nuôi, mang lại giá trị kinh tế cao. Thịt trăn được chế biến thành nhiều món
ăn. Da trăn có thể làm ví, cặp, đồ nữ trang. Mỡ trăn dùng chữa phỏng, bôi vào vết ngứa trên da; các
vết thương đang chảy máu sẽ cầm máu ngay.
Mật trăn ngâm rượu dùng xoa bóp những chỗ đau nhức. Có thể pha tiết trăn với rượu, uống mát, bổ.
Thịt, xương, da trăn nấu cao dùng cho người già, trẻ em, phụ nữ rất tốt.
Trăn cũng là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, Trung Quốc, Nhật Bản nhập trăn
làm thực phẩm và thuốc quý.
Để nuôi trăn đạt hiệu quả, cần tuân thủ một số kỹ thuật sau:
– Chọn trăn giống khoẻ mạnh, không dị tật; con cái mập, đuôi nhỏ ngắn; con đực đuôi to và thuôn
dài, trọng lượng từ 100 g trở lên.
– Chuồng nuôi thường là hình hộp chữ nhật, có bộ khung bằng gỗ hoặc sắt thép, xung quanh là lưới
thép, có lỗ nhỏ hơn đầu trăn, cửa ra vào ở mặt trước chuồng và có khoá. Chuồng có chiều dài tối
thiểu bằng chiều dài tối đa của trăn, chiều rộng và chiều cao có tỷ lệ tương ứng cho phù hợp với
hoạt động của trăn và việc chăm sóc nuôi dưỡng.
– Chuồng, trại nuôi trăn phải đáp ứng các tiêu chuẩn về nước thải. Cần thường xuyên vệ sinh
chuồng trại sạch sẽ để tránh các bệnh ghẻ trên lưng và bụng. Thức ăn dư thừa cần được dọn dẹp
hằng ngày. Trăn con phải được tắm rửa mỗi ngày. Có thể dùng thuốc diệt muỗi để diệt mạt trăn.
– Thức ăn cho trăn bao gồm các loại động vật máu nóng như: gà, vịt, ngan, ngỗng, thỏ, chuột hoặc
thịt gia súc, gia cầm, hay phế phụ phẩm giết mổ gia súc, gia cầm, trong đó chuột là mồi trăn thích
nhất. Trăn có tập tính ăn mồi cử động, muốn trăn ăn mồi không cử động thì phải tập hay dùng que
đung đưa mồi thì trăn mới ăn (đớp). Từ 5-7 ngày cho ăn 1 lần, có thể luyện cho trăn ăn các con vật
mới chết, chú ý không cho ăn các con vật chết lâu hay bị sình.
– Nước uống: Tốt nhất nên cung cấp đầy đủ nước sạch và mát cho trăn tắm và uống tự do. Trăn nuôi
1 năm có thể tăng 10-15 kg, nếu chăm sóc tốt. Hệ số thức ăn: 4-5 kg cho 1 kg tăng trọng.
– Trăn giống cho đẻ: Con đực nuôi từ 20-24 tháng tuổi, nặng từ 6 kg trở lên cho phối là tốt nhất. Con
cái nuôi từ 30-36 tháng tuổi, nặng từ 20-24 kg thì cho đẻ mới đem lại hiệu quả (trăn cái càng to thì
đẻ trứng càng lớn, trăn con to và bán có giá hơn).
– Công tác thú y: Trăn là động vật hoang dã mới được thuần hoá, sức đề kháng cao, ít dịch bệnh.
Tuy nhiên, trăn cũng thường bị một số bệnh như viêm tấy hàm răng. Mới đầu thấy răng đen, có rỉ,
viêm tấy nhỏ màu đỏ, sau chuyển thành màu trắng, có mủ, rụng răng, hàm sưng không ăn được rồi
chết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp như Ampicyline, Tetracyline
hoặc Peniciline + Streptomycin…
– Sưng phổi: Trăn biếng ăn, bỏ ăn rồi chết. Điều trị bằng kháng sinh tổng hợp.
– Táo bón: Dùng thuốc tẩy dạng dầu bơm vào lỗ huyệt, có khi phải dùng ngón tay móc phân cục ra.
Cho ăn thức ăn nhuận tràng…
– Viêm cơ dưới da: Dưới lớp da nổi những mụn nước nhỏ bằng hạt bắp, hạt đậu, trăn biếng ăn,
không ăn rồi chết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp…
– Ký sinh trùng đường ruột: Trăn còi cọc, chậm lớn, trong phân có ấu trùng giun, sán. Đây là bệnh
phổ biến gây tác hại nhiều, nguyên nhân do cho ăn uống không hợp vệ sinh. Dùng thuốc xổ sán lãi
cho trăn uống.
– Ký sinh trùng ngoài da: Ve (bét) bám trên da hút máu và truyền bệnh cho trăn. Dùng thuốc sát trùng
chuồng trại sạch sẽ./
Nông dân ngày nay có th làm làm giàu nhanh chóng mà không c n di n tích t quá ể ầ ệ đấ
r ng b ng vi c áp d ng các mô hình ch n nuôi hi u qu. Mô hình nuôi tr n c a ông ộ ằ ệ ụ ă ệ ả ă ủ
Nguy n V n Ng c L i, p An Nh n 1, xã a Ph c H i, huy n M Cày Nam là m t i n ễ ă ọ ợ ấ ơ Đ ướ ộ ệ ỏ ộ đ ể
hình thu lãi hàng tr m tri u ng m i n m.ă ệ đồ ỗ ă
Mê thích nuôi trăn từ nhỏ, nhờ biết tìm tòi, học hỏi tham quan nhiều nơi, anh
Nguyễn Văn Ngọc Lợi, ấp An Nhơn 1, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam đã
chọn con trăn trong phát triển kinh tế và anh đã rất thành công với mô hình này.
Năm 2002, anh Lợi bắt đầu chuyển sang nghề nuôi trăn. Ban đầu với nguồn vốn
ít ỏi nên anh chỉ mua 10 trăn con với giá 200.000 đồng mỗi con về nuôi thử
nghiệm. Sau thời gian khoảng 1 năm, trăn lớn nhanh đạt trọng lượng từ 5-6
kg/con, anh bán lứa trăn đầu tiên đã thu được lợi nhuận trên 30 triệu đồng. Từ
đó anh đã quyết định mua thêm trăn về nuôi và duy trì nghề nuôi trăn cho đến
nay.
Kinh nghiệm nhiều năm nuôi trăn đem lại hiệu quả kinh tế cao anh Lợi cho biết:
Nuôi trăn không khó, trăn lớn nhanh nếu cung cấp đầy đủ thức ăn. Từ lúc nuôi
trăn đến nay, lúc nào gia đình anh Lợi cũng duy trì tổng số ngoài 50 con trăn thịt
và ngoài 200 trăn con. Bình quân mỗi năm, gia đình anh bán khoảng 20 con trăn
với giá từ 220.000 – 250.000 đồng/kg tùy lọai, trừ đi mọi khoảng chi phí gia đình
anh thu lãi từ 120 triệu đồng đến 150 triệu đồng. Hiện tại gia đình anh Lợi còn 25
con trăn với trọng lượng từ 50 – 60 kg và 15 con trăn trọng lượng 5-6 kg.
Ngoài nuôi trăn thịt, anh Lợi còn nuôi trăn sinh sản để duy trì đàn. Số trăn hiện tại
do anh gầy giống đều do trăn nhà đẻ, ấp nở được nhốt trong chuồng. Trăn cái
sinh sản mỗi năm một lần, mỗi lần từ 50 – 60 trăn con, tỷ lệ hao hụt rất ít. Trăn
thường đẻ trứng vào tháng 2 tháng 3 hàng năm, ấp trứng kéo dài khoảng 2
tháng trứng bắt đầu nở ra trăn con. Trăn con rất háo ăn nếu cung cấp đủ thức ăn
thường xuyên ở giai đoạn này trăn sẽ mau lớn. Trăn ngay khi nở đã biết ăn, thức
ăn của chúng là gà con và chuột nhỏ… Đặc biệt trăn là loài máu lạnh, ưa ấm và
rất nhạy cảm với nhiệt độ thấp. Trong suốt thời gian mùa lạnh trăn rất ít ăn và ít
cử động, nông dân không nên cho trăn ăn vào mùa này. Năng lượng cung cấp
cho sự sống lúc này là nhờ lớp mỡ tích tụ trong cơ thể để duy trì sự sống.
Hiện nay, trăn có trọng lượng từ 5- 6 kg, anh Lợi bán với giá từ 250.000 –
270.000 đồng/kg. Trăn có trọng lượng từ 30- 40kg bán với giá từ 200.000 –
220.000 đồng/kg. Nuôi trăn nhẹ công và ít vốn không sợ rủi ro hay lỗ vốn. Nuôi
trăn cho ăn thức ăn cũng không nhiều nhưng lợi nhuận rất cao. Trung bình đầu
tư 6 kg thức ăn, trăn sẽ tăng trọng lên 1 kg. Để giảm bớt chi phí thức ăn cho trăn
anh Lợi tìm mua những con mồi như: gà con và heo con chết ngạt, giá thấp từ
15.000 – 20.000 đồng/kg để có nhiều lời hơn. Theo anh Lợi tính toán nếu đầu tư
6 kg thức ăn, trăn sẽ tăng trọng 1 kg. Với giá thức ăn cho trăn bình quân khoảng
60.000 đồng đến lúc bán trăn mỗi kg trăn bán được bình quân 250.000 đồng,
nông dân lãi gần 200.000 đồng mỗi kg trăn.
Chuồng là yếu tố quan trọng trong khi nuôi trăn, bởi trăn rất khỏe. Chuồng được
đóng thùng hình chữ nhật bằng cây ở lớp trên và lớp dưới, xung quanh được
phủ kín bằng lưới chì lỗ vuông để tạo sự thông thoáng cho trăn. Nhốt trăn ở
trong chuồng đậy nắp cẩn thận để trăn không xổng chuồng mà đi. Cách khoảng
1,5 tháng anh Lợi vệ sinh chuồng một lần tránh hôi thối mùi thức ăn còn dư thừa.
Trăn là loài háo nước, trong chuồng lúc nào cũng dự trữ nước để cung cấp nước
uống cho trăn, nếu bị thiếu nước sẽ làm lớp da bên ngoài bị khô và dễ bong
tróc, Nuôi trăn khỏe mạnh bình thường, cách 2 tuần cho ăn một lần hoặc có thể
mỗi tháng cho ăn từ 2- 3 lần. Khi trăn lớn nên tách ra nhốt riêng tránh để chung
chuồng vì trăn sẽ tranh giành thức ăn với nhau. Theo anh Lợi: nuôi trăn là cách
phát triển kinh tế nhanh và bền vững mà không sợ rủi ro. Để tiết kiệm chi phí
thức ăn người nuôi có thể tận dụng những động vật hoang dã như bẫy chuột trên
cây dừa làm thức ăn cho trăn, vừa bảo vệ năng suất vườn dừa không bị chuột
xâm hại còn có lợi đối với việc nuôi trăn.
Từ nuôi trăn đạt hiệu quả cao của anh Lợi, ở địa phương có nhiều nông dân đến
tham quan và nhân rộng mô hình./.
QUY TRÌNH NUÔI TRĂN HIỆU QUẢ
(Trăn)
THỜI GIAN SẢN PHẨM VÀ LIỀU DÙNG
THỜI ĐIỂM
GIAO PHỐI
(2 tuần x 1 lần)
Để tăng thể lực, nên trộn thức ăn hoặc pha nước
cho uống.
Mỗi 5kg thể trọng:
• MD REDMIN (1ml)
SAU KHI
GIAO PHỐI
(1lần)
Để trăn đậu thai tốt, đẻ trứng nhiều, nên trộn thức
ăn hoặc pha nước cho uống. Mỗi 5kg thể trọng:
• MD REDMIN (1ml)
TRONG KHI
MANG THAI
(Hằng ngày)
Trộn thức ăn, cho mỗi 5kg thể trọng:
• MD SELEN E (1g)
• MD REDMIN (1ml)
SAU KHI
ĐẺ TRỨNG
(1 tuần x 1 lần)
Để trăn ấp nở trứng tốt, trộn thức ăn hoặc pha nước
cho uống.
Mỗi con:
• MD REDMIN (2-3ml)
TRĂN CON
SAU KHI ẤP NỞ
(1 lần)
Nhỏ vào miệng mỗi trăn con:
• MD REDMIN (0.2ml)
TRĂN CON
TẬP ĂN
Sau 7-8 ngày
Để trăn con lớn nhanh, trộn vào mỗi kg thức ăn:
• MD REDMIN (1ml)
TRĂN
1 THÁNG TUỔI
TRỞ LÊN
(1 tháng x 1-2 lần)
Để trăn tiêu hóa tốt, trộn vào mỗi kg thức ăn:
• MD COLINEOCIN (3g)
Để nuôi trăn mau lớn, tiêm 1 tuần 1-2 lần x 3 tuần.
Cho mỗi 5kg thể trọng:
• MD ANALGIN TD (1ml)
• MD BETA (1ml)
• MD CATAMIN (1ml)
1/ Giá trị kinh tế của trăn:
Ngoài việc khai thác trăn làm thực phẩm, con người cũng đã khai
thác trăn như một nguồn dược liệu quý:
– Lấy da trăn đem đốt thành than, tán bột rồi trộn lẫn với mỡ, bôi
trị ghẻ rất hiệu nghiệm.
– Mật trăn ngâm trong rượu dùng để xoa bóp các vết thương tụ
máu, nơi có các khớp bị sưng đau, tác dụng tương đương mật gấu,
cùng dùng để chữa mắt sưng, vùng bụng tim đau như có trùng
cắn, bộ phận dưới âm hộ trùng ăn lở loét (Danh y biệt lục).
– Thịt trăn làm chà bông cho sản phụ ăn hằng ngày giúp mau
chóng lấy lại sức, giảm đau nhứt và tê mỏi (Đỗ Huy Bích, 1979)
– Mỡ trăn chưá nhiều hợp chất béo như palmitin, olein… dùng để
trị bệnh ngoài da. (Theo lương y Đinh Bà Luyện và dược sĩ Diệu
Phương).
– Xương trăn đem nấu cao uống có tác dụng chữa đau lưng, nhứt
xương, nhất là đau cột sống.
– Máu trăn pha với rượu uống có tác dụng bổ máu, chữa bệnh
chống mặt, hoa mắt.
2/ Đặc điểm:
Trăn thuộc lớp bò sát. Kích thước của trăn thay đổi từ 50cm-10m
nhưng đa số có cỡ trung bình và lớn. Ở phần cuối của thân, ngay
phía trước hậu môn còn có di tích của đai hông và xương đùi mà
một phần lộ rõ ra ngoài thành 2 cựa giống như cựa gà. Có 2 phổi
phát triển đầy đủ mặc dù phổi bên phải dài hơn bên trái. Các
xương hàm khớp lỏng lẽo với nhau và có khả năng cử động linh
hoạt, nhờ đó trăn có thể há miệng nuốt được những con mồi rất
lớn. Cả hai hàm đều có răng mọc hơi xiên, có răng phiá trước dài
hơn các răng nằm phiá trong và không có nọc độc. Hệ cơ thân rất
khoẻ, được sử dụng để quấn và giết mổi. Số lượng đốt sống rất
lớn, thay đổi từ 300-450 đốt. Màu sắc cơ thể thay đổi tuỳ loài
nhưng thường có những hoa văn hình mạng lưới ở mặt lưng tạo
nên màu sắc ngụy trang giúp con vật có thể phục kích để rình mồi
rất tài tình. Hiện nay trên thế giới có khoảng 22 giống, 80 loài.
Trăn là động vật ưa ấm và ẩm, chịu được một cách dễ dàng với
nhiệt độ cao về muà hè nhưng chúng rất nhạy cảm với lạnh. Ở các
tỉnh phiá Bắc về muà đông trăn phải tìm những nơi kín đáo để trú
ẩn qua mùa đông giá rét còn ở đồng bằng Nam bộ, trong mùa khô
trăn phải chui rúc mình dưới các lớp cỏ để tránh nóng. Trong suốt
thời gian trú đông và trú khô, trăn nằm yên một chỗ, động tác hô
hấp không thấy rõ ràng, quá trình trao đổi chất giảm xuống ở mức
thấp nhất, và năng lượng cung cấp cho sự sống lúc này chủ yếu là
do khối lượng mỡ được tích trữ vào cuối muà thu hay cuối muà
mưa. Chu kỳ hoạt động ngày của trăn khá rõ nét. Trăn hoạt động
chủ yếu và ban đêm còn ban ngày thường tìm những nơi kín đáo
để ẩn nấp. Trong chuồng nuôi, chúng ta sẽ quan sát thấy trăn suốt
ngày nằm quấn tròn thành một cục, ngủ li bì. Thời gian hoạt động
tuỳ thuộc vào lưá tuổi. Nói chung trăn nhỏ ra kiếm ăn sớm hơn
trăn trưởng thành.
3/ Làm chuồng nuôi:
Chuồng nuôi là yếu tố quan trọng khi nuôi trăn bởi trăn rất khoẻ,
nếu nó chui được đầu thì sắt 8-12 li đểu bị trăn bẻ gãy.
Chuồng có thể làm bằng gỗ thanh, nan tre, sắt, lưới mắt cáo… có
khe, lỗ rộng từ 1-2,5cm (tuỳ loại trăn nuôi) để tiện vệ sinh và
không cho trăn chui ra ngoài.
Kích thước ô chuồng cao 0,6-0,7m, rộng 0,5-0,6m, dài 24m. Với
diện tích này có thể nhốt các loại trăn theo số lượng: trăn sơ sinh
0,5kg/con nhốt 8-12 con, từ 0,7-2kg/con nhốt 5-7 con, từ 2,5-5kg
nhốt 3-4 con, từ 5kg trở lên nhốt 2-3 con.
Nơi có điều kiện đất rộng nên làm chuồng kết hợp với khu vườn
rừng chăn thả, có rào lưới sắt tráng kẽm chắc chắn.
4/ Giống nuôi:
– Trứng giống sau khi ấp 53-55 ngày nở ra trăn gi6óng. Nuôi
chúng bằng thức ăn: gà con mới nở, chuột nhỏ, chim cút nhỏ.
Khoảng 3-5 ngày dùng gà con hoặc chuột sống nhử cho trăn đớp
ăn, kéo lên thả ra ngoài cho trăn đớp mồi, sau đó bắt đỡ nhẹ thả
vào chuồng.
– Cứ 3-5 ngày lại cho trăn con ăn một lần: có lần trăn lớn, bắt mồi
thả ra ngoài cho nuốt xong lại ăn tiếp con thứ 2. Số lượng cho ăn
tăng thêm theo tuổi nuôi, 2 tháng tuổi cho ăn 2 con gà hoặc chuột
nhỏ, 3 tháng tuổi có thể cho ăn 3 con gà nhỏ, sau thời gian 7-10
ngày không cho thức ăn vào chuồng, trăn tranh nhau ăn sẽ cắn
nhau, làm trăn bị thương, sinh bệnh.
Phải có máng chứa nước cho trăn uống hoặc tắm mình vào nước
cho dễ lột da. Thường ngày phải dọn sạch phân trong chuồng, số
phân hàng ngày thải ra không nhiều, phân khô, ít gây mùi thối,
khoảng 5-7 ngày xả ít nước hoặc đưa trăn ra tắm trong chậu nước,
cho trăn dạn người và sạch sẽ.
Trăn giống nuôi sau 4-5 tháng thì dài khoảng 0,8m nên chọn nuôi
riêng thành trăn thịt.
5/ Kỹ thuật nuôi:
Thức ăn cho trăn chủ yếu là những động vật cò máu nóng ( gà,
vịt, chim cút non…, thú có guốc nhỏ (thịt heo, bò, dê, cheo
mễn…), các loài gặm nhấm (thỏ, chuột…)
Nước là một yếu tố cần thiết cho đời sống của trăn, tuy rằng nhu
cầu không nhiều và thường xuyên vì lượng nước có trong thức ăn
đã đủ cho nhu cầu cơ thể. Sau khi ăn xong, trong quá trình tiêu
hoá trăn cần uống nước. Những ngày nóng bức và đặc biệt khi sắp
thay da trăn trầm mình trong nước. Nước giúp nó lột xác mau
chóng và dễ dàng hơn thiếu nước lớp vẩy sừng thường bị sát khó
bong. Vì vậy, trong chuồng nuôi cần thiết phải có một chậu nước
cho trăn.
5.1. Nuôi trăn thịt:
Trăn con từ 1 tháng tuổi đến 0,5kg, 1 tuần cho ăn 1 lần, hết 0,5kg
thức ăn trong 1 tháng.
Trăn từ 1 – 5kg cho ăn 2-3 lần/tháng, mỗi lần từ 1-1,5kg thức ăn.
Trăn từ 6-10kg cho ăn 2 lần/tháng, mỗi lần cho ăn từ 1,5-1,7kg
thức ăn.
Trăn trên 10kg, cứ 8-20 ngày cho ăn 1 lần, mỗi lần từ 3-5kg thức
Xem thêm: Bọ chét mèo – Wikipedia tiếng Việt
ăn.
Ngoài ra, còn cần chú ý bổ sung thêm các loại vitamin B1, B6,
B12, C, A, D, E, PP… hoà vào nước cho uống sau mỗi lần trăn ăn
hoặc uống trực tiếp.
5.2. Nuôi trăn sinh sản:
Thông thường trăn sống đơn độc. Chỉ đến muà sinh sản những
con trăn đực và trăn cái mới tìm đến nhau. Muà phối giống của
trăn từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau. Thời gian phối tốt nhất là
tháng 11-12. Trước muà phối giống 1 tháng cho con cái ăn thật no
để có đủ dinh dưỡng tích mỡ và tạo trứng.
Tuổi trăn phối giống là 28-30 tháng tuổi. Khi trăn cái muốn giao
phối thường tiết ra mùi đặc hiệu để dụ con đực. Lúc này thả trăn
đực khoẻ mạnh có trọng lượng bằng hoặc to hơn vào, chúng xoắn
xuýt, giao phối với nhau 1-3 giờ. Nên cho phối kép để đảm bảo
trứng thụ thai và có tỉ lệ nở cao.
Trăn cái mang thai từ 120-140 ngày. Trong thời gian trăn cái có
chửa không cho ăn hoặc cho ăn mỗi lần một ít để tránh chèn ép
trứng.
Khi chuẩn bị đẻ, con cái bò đi bò lại trong chuồng, đào đất, tìm
chỗ trũng, có rơm, cỏ khô để đẻ. Có thể làm ổ đẻ cho trăn bằng
bao xác rắn đựng trấu cài đặt vào một góc chuồng, nơi yên tĩnh,
tránh gió lùa…
Mỗi lần trăn cái đẻ từ 10-100 quả trứng. Sau khi đẻ hết trứng vào
ổ, trăn cái tự cuộn tròn lại trên trứng để ấp. Khi trăn ấp nên kiểm
tra vài lần, nếu thấy các quả trứng to đều, trắng, khô ráo, vỏ láng
bóng là trứng tốt những quả quá to hay quá nhỏ, vỏ xỉn vàng… là
trứng hỏng phải loại bỏ.
Thời gian ấp trứng 53-55 ngày thì nở. Trăn con tự mổ vỏ trứng
chui ra. Sau 1-2 ngày có những con trăn yếu không tự mổ vỏ chui
ra, phải đem thả những quả trứng này vào nước ấm kích thích để
trăn con tự mổ vỏ chui ra. Còn quả nào chưa nở, ta hỗ trợ bằng
cách xé vỏ dài 1cm, lần tìm đầu trăn con nhẹ nhàng kéo ra. Trăn
mới nở dài 50-60cm, nặng 80-140g.
Trăn con sau khi nở có thể tự sống 3-5 ngày bằng khối noãn
hoàng tích ở trong bụng. Sau thơì gian này, bụng trăn con xẹp lại,
da nhăn nheo và lột xác đầu tiên. Trăn khỏe mạnh bình thường
cho ăn 4-5 lần/tháng, trăn yếu cho ăn 10 lần/tháng. Thức thích
hợp thịt lợn nạc, thịt bò, trâu, dê… tươi ngon thái nhỏ.
Cách cho trăn con ăn: Dùng một qua nhỏ vót tà đầu ghim vào
miếng mồi, tai trái cầm đầu trăn, tay phải cầm que đưa thức ăn
vào miệng trăn. Không được thọc que vào sâu trong họng dễ gây
thương tích. Sau khi đã cho mồi vào miệng trăn, không được rút
ngược que mà gạt ngang que về phiá mép trăn, để miếng mồi lại.
Trong quá trình thao tác cần phải hết sức nhẹ tay để tránh làm gẫy
răng hoặc đánh rơi trăn từ trên cao xuống đất.
5.3. Cách phân biệt trăn đực, trăn cái:
Cũng giống như các loài rắn khác, việc phận biệt một con trăn
đực với một con trăn cái thật không đơn giản vì chúng có hình
dạng và màu sắc gần giống nhau, mặt khác chúng lại có cơ quan
sinh sản nằm bên trong cơ thể nên rất khó phân biệt. Thường rắn
đực có đuôi dài hơn và phần đầu của đuôi (nơi tiếp giáp với hậu
môn) hơi phình ra, trong khi ở con cái thì hơi thắt lại. Kích thước
và trọng lượng của trăn đực cũng thường nhỏ hơn trăn cái, số vây
bụng ít hơn nhưng có đuôi dài và số lượng vây đuôi nhiều hơn.
Trăn đực có 2 mấu ngựa nằm hai bên khe huyệt trông tực như
chiếc cựa chân gà, có lẽ là cơ quan dùng để kích thích trăn cái khi
giao phối.
– Trăn đực: Thân thon dài, có 2 cựa dài ở hai bên hậu môn lộ ra
ngoài, vẩy hậu môn to, chóp vẩy tù. Vẩy quanh hậu môn nhỏ xếp
xít nhau, ấn mạnh tay vào hai bên huyệt thấy cơ quan giao cấu lộ
ra.
– Trăn cái: Thân to mập, cựa hai bên hậu môn ngắn, nằm ẩn sâu
bên trong. Vẩy quanh hậu môn to, xếp không sít nhau, không thấy
có cơ quan giao cấu.
Lưu ý:
– Trăn nuôi lúc đói, lột xác, đang ấp trứng… thường rất hung dữ,
chúng rất nhạy cảm với các loại mùi thuốc lá, hành, tỏi, dầu sả…
nên cần tránh những mùi này. Nhưng nếu trong trường hợp bị trăn
cắn, bạn chỉ việc nhét một nhúm thuốc rê vào miệng, lập tức trăn
sẽ nhả ra.
– Trăn nuôi khi ăn no rất hiền, thích vuốt ve, cõng bế, về muà hè
rất thích dầm nước. Vì vậy, trong chuồng, khu chăn nuôi ngoài
máng, chậu uống, cần có chậu to hoặc xây bể để khi nóng bức
trăn bò vào đầm tắm…
– Trăn lột xác vào muà hè, trăn non lột nhiều lần hơn trăn già. Lúc
sắp lột xác trăn có màu da sẫm hơn, hai mắt trở nên đục mờ,
ngừng ăn, tìm chọn những nơi có nước, gần nước để nằm. Thời
gian lột xác thường kéo dài từ 1-2 tuần.
uống. Cũng hoàn toàn có thể rào lưới thép hoặc xây tường xung quanh một khoảng chừng vườn. Trong vườn chia làm 3 phần : Một phần nhà có mái che mưa nắng, nềnchuồng láng xi-măng dốc từ 4-6 độ, thay cho hang động tự nhiên để trăn trúngụ, một phần có cây xanh bóng mát, một phần là hồ nước có độ sâu 20-40 cm để trăn ngâm mình tắm mát và uống nước. IV. Thức ăn và khẩu phần ăn : Thức ăn cho trăn gồm có những loại động vật hoang dã máu nóng như chó mèo, gà, vịt, ngan, ngỗng, thỏ, chuột hoặc thịt gia súc, gia cầm hay phế phụ phẩm giếtmổ gia súc, gia cầm, trong đó chuột là mồi trăn thích nhất. Trăn có tập tínhăn mồi cử động, muốn trăn ăn mồi không cử động thì phải tập hay dùng queđung đưa mồi thì trăn mới ăn ( đớp ). Khẩu phần thức ăn : Trăn dưới 6 tháng tuổi, định lượng thức ăn bằng 30 % khối lượng khung hình / tháng, chia làm 7-10 lần ; trăn trên 6 tháng đến 1 nămtuổi, định lượng thức ăn bằng 20 % khối lượng khung hình / tháng, chia làm 5-6 lần ; trăn trên 1 năm tuổi, định lượng thức ăn bằng 10 % khối lượng cơthể / tháng, chia làm 2-4 lần. Nước uống : Tốt nhất nên phân phối khá đầy đủ nước sạch và mát cho trăn tắm vàuống tự do. V. Chăm sóc nuôi dưỡng : Trăn đực, trăn cái phải nuôi riêng để tiện theo dõi, quản trị, chăm nom nuôidưỡng … Quá trình sinh trưởng, tăng trưởng phải trải qua những lần lột da. Sau khi lộtda nếu được cung ứng thức ăn không thiếu, chăm nom nuôi dưỡng tốt, vận tốc tăngtrưởng của trăn hoàn toàn có thể tăng nhanh hơn 2-3 lần. Tuổi thành thục sinh dục của trăn trên hai năm. Trăn động dục theo mùa, thường từ tháng 3-8 âm lịch, trăn nuôi nhốt hoàn toàn có thể muộn hơn … Khi động dục, trăn cái, bò tới bò lui tìm chỗ trống chui ra tìm đực, đồng thời tiết ra chấtdịch có mùi đặc trưng để báo hiệu và điệu đàng trăn đực. Đây là thời điểmphối giống thích hợp, cho trăn đực và trăn vào chung một chuồng, chúng sẽquấn quýt, xoắn chặt với nhau và giao phối 2-3 giờ liền. Trăn mang thai trên 3 tháng thì đẻ trứng. Trước khi trăn đẻ, phải chuẩn bị sẵn sàng ổđẻ ( bằng rơm rạ, vải vụn … ), chuồng nuôi phải thật sạch, yên tĩnh, tránh mùilạ Trăn đẻ 10-100 trứng, trăn lớn đẻ nhiều, trăn nhỏ đẻ ít nhưng kích thướcvà khối lượng quả trứng thường tương tự nhau, trung bình mỗi trứngnặng 100 – 130 g, thời hạn đẻ lê dài một vài giờ đến một vài ngày. Đẻ xong, trăn cái khoanh tròn thành ổ, đầu ngóc lên chính giữa vừa ấp trứngvừa quan sát trong suốt thời hạn ấp. Trong thời hạn ấp, cho trăn ăn từ từ, không cho ăn nhiều một lúc, thức ăn dồn cục khó tiêu. Trứng được ấp liên tục 60 ngày thì nở, tỷ suất nở 40-80 %. Khi trứng đến thờikỳ nở, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể lấy ra cho vào khay nở tự tạo. Khay nở tự tạo có nhiệtđộ tương tự với nhiệt độ của ổ ấp để trứng liên tục nở. Khi nở, trăn condùng đầu và thân tách khỏi vỏ trứng chui ra. Trứng chưa nở không nên xévỏ, xé vỏ sớm trăn nở ra khó nuôi. Trăn con mới nở có khối lượng trung bình 100 g, dài 40-60 cm. Sau khi rakhỏi vỏ trứng, trăn con khởi đầu hoạt động và làm quen với môi trường tự nhiên sốngmới. Sau khi nở 10-15 ngày hoàn toàn có thể cho trăn con ăn hỗn hợp thức ăn xaynhuyễn ( thịt heo, bò, vịt, gà, cá, những loại khoảng chừng 100 g, 25 g sữa, một quảtrứng và sinh tố ( nếu có ), bơm vào miệng cho trăn ( đầu bơm phải gắn ốngcao su mềm ), mỗi ngày vài ba lần. Trên 10 ngày tuổi hoàn toàn có thể băm nhỏ mồi rồidùng tay đút cho trăn ăn. Khi cho trăn ăn, một tay nắm phần cổ lần lần tớiphần đầu, bóp nhẹ cho hàm răng trăn con mở ra, tay kia cầm thức ăn đưavào miệng giữ yên một lúc, khi trăn con há miệng lần nữa thì liên tục đẩythức ăn vào thật sâu để trăn con không nhả thức ăn ra. Sau 1 tháng trăn bắtđầu tập săn mồi nhỏ như ếch, nhái, chuột con … Nếu được chăm nom nuôidưỡng tốt, nhà hàng siêu thị rất đầy đủ, một năm trăn hoàn toàn có thể đạt chiều dài 2-2, 5 m, nặng5-10kg. Tuổi thọ trung bình của trăn 15-20 năm. Trong mỗi chuồng nuôi trăn nên để một máng nước sạch và mát cho trănuống, đồng thời tăng thêm nhiệt độ khi thời tiết hanh hao, vì nếu hanh hao quátrăn chậm lớn và da bị hỏng. Ðịnh kỳ 5-7 ngày vệ sinh chuồng trại một lần, vệ sinh thật sạch những chấtthải cho khỏi hôi hám, ruồi nhặng không bu bám đem theo mầm bệnh. Trờiấm thì phun nước tắm rửa cho trăn, cọ chuồng thật sạch, trời lạnh và ẩmkhông nên tắm cho trăn, chỉ vệ sinh khô, mùa đông cần che chắn xungquanh chuồng cho trăn ấm. Có thể dùng xà bông để vệ sinh chuồng trại nhưng phải xả lại nhiều lần bằngnước sạch để không còn mùi lạ. Nếu nuôi thả trong vườn thì phải quét dọn lácây khô, cỏ dại liên tục. Khi vào chuồng trăn phải luôn đề phòng trăntấn công … VI. Công tác thú y : Trăn là động vật hoang dã hoang dã mới được thuần hóa, sức đề kháng cao, ít dịchbệnh. Tuy nhiên, trăn cũng thường bị 1 số ít bệnh như : – Viêm tấy hàm răng : Mới đầu thấy răng đen, có rỉ, viêm tấy nhỏ màu đỏ, sau chuyển thành màu trắng, có mủ, rụng răng, hàm sưng không ăn được rồichết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp nhưAmpicyline, Tetracyline hoặc ( Peniciline + Streptomycin ) … – Sưng phổi : Trăn biếng ăn, bỏ ăn rồi chết. Điều trị bằng kháng sinh tổnghợp. – Táo bón : Dùng thuốc tẩy dạng dầu bơm vào lỗ huyệt, có khi phải dùngngón tay móc phân cục ra. Cho ăn thức ăn nhuận tràng … – Viêm cơ dưới da : Dưới lớp da nổi những mụn nước nhỏ bằng hạt ngô, hạtđậu, trăn biếng ăn, không ăn rồi chết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy vàchích kháng sinh tổng hợp … – Ký sinh trùng đường ruột : Trăn còi cọc, chậm lớn, trong phân có ấu trùnggiun, sán. Đây là bệnh phổ cập gây tai hại nhiều, nguyên do do cho ănuống không hợp vệ sinh. Dùng thuốc xổ sán lãi cho trăn uống. – Ký sinh trùng ngoài da : Ve ( bét ) bám trên da hút máu và truyền bệnh chotrăn. Dùng thuốc sát trùng chuồng trại thật sạch. – Chấn thương cơ học : Chấn thương nhỏ thì bôi thuốc sát trùng, chấn thươnglớn phải khâu, da trăn có năng lực tái sinh nhanh sẽ chóng lành. Phòng bệnh tổng hợp là giải pháp phòng bệnh tốt nhất cho trăn : Chăm sócnuôi dưỡng tốt, nhà hàng siêu thị thật sạch, thức ăn bảo vệ thành phần và giá trị dinhdưỡng, chuồng trại luôn thật sạch, không lầy lội, không nóng quá, lạnh quá, không có mùi lạ, tránh ruồi nhặng và những loài côn trùng nhỏ khác gây hại chotrăn. Đặc biệt, khi thiên nhiên và môi trường sống biến hóa phải chăm nom nuôi dưỡng thậtchu đáo để phòng và chống stress gây hại cho trăn. Kỹ thuật nuôi TrănMấy năm qua, cùng với trào lưu nuôi trồng thuỷ sản, bà con đang pháttriển nuôi 1 số ít thuỷ đặc sản nổi tiếng : ba ba, rắn, trăn, cá sấu … tạo ra đối tượngnuôi ngày càng phong phú và đa dạng, giá trị thu nhập cao. Giúp bạn đọc – những ngườiđang nuôi trăn có thêm kiến thức và kỹ năng, tập hợp kinh nghiệm tay nghề trong dân và bảnthân trong quy trình chỉ huy xin trình làng tới bạn đọc kinh nghiệm tay nghề nuôi trăn. I. Đặc điểm sinh học – Trăn có nhiều loại khác nhau : gồm có trăn đất, trăn gấm, trăn biến dạng. Song hiệnnay nhân dân tăng trưởng nuôi nhiều nhất là trăn gấm. Trước đây là loại trăn hoang dã, sống thành từng bầy trong những rừng vùng Cà Mau, Kiên Giang ; thời nay được thuầnhoá nuôi trong những mái ấm gia đình, tạo thành vật nuôi thông dụng hiền lành, thân mật với conngười. – Trăn là loài ăn thịt, thức ăn hầu hết là chuột, gà, vịt, thỏ, cá, chim … Trănthích ăn vật sống ; nếu luyện chúng cũng quen ăn vật chết. Trăn ăn hầu hết lànuốt, không cắn xé và nghiền những con vật khác. Răng sắc, quặp, hầu hết là giữ mồi : trăn không có nọc độc, cắn không gây hại. – Từ 1 đến 20 ngày ăn 1 lần ; có năng lực chịu đói hàng tháng. – Trăn đẻ ra trứng, ấp nở thành con. Trăn cái có gai nhỏ, thân mập, đuôi nhỏ ; trăn đực có 2 gai giao cấu, đuôi dài và thuôn. 2 tuổi trăn hoàn toàn có thể sinh sản, mỗitrăn hoàn toàn có thể đẻ 1 quả trứng / 1 kg khối lượng. – Trăn sống và tăng trưởng ở vùng nhiệt độ nóng. Dưới 15 độ C trăn không ăn, nằm yên chống rét, nhiệt độ ấm trở lại mở màn ăn. Trăn thường lột da, sau kìlột da trăn ăn và lớn nhanh. II. Kỹ thuật nuôi1. Làm chuồng nuôi – Chuồng nuôi nên làm bằng sắt ( xây xi-măng cũng bị trăn phá hỏng ). Qua trong thực tiễn rút ranguyên tắc : Trăn rất khoẻ, nếu chui được đầu thì sắt 8-12 li đều bị bẻ gãy, hoặc xâybằng xi-măng thì chúng cữ theo thành tưởng mà bò đi mất. Do đó làm chuồng phải bảođảm “ đầu không xuôi, đuôi không lọt ” : + Trăn nhỏ : 0,5 x 0,4 x 0,4 m. + Trăn nhỡ : 0,6 x 0,5 x 0,4 m. + Trăn to : 1,2 x 0,8 x 0,5 m. – Chuồng 1 tầng hoặc 2 – 3 tầng : + Tầng trên nuôi trăn nhỏ : 0,5 × 0,4 × 0,4 m. + Tầng dưới nuôi trăn to : 1 × 0,8 × 0,4 m. 2. Giống nuôi – Trứng sau khi ấp 58-60 ngày nở ra trăn con. Cho trăn con ăn gà con, chuột nhỏ, chimcút nhỏ. Cần nuôi trong chuồng nhỏ, tỷ lệ 20-25 con / mét vuông. Sau 3-5 ngày cho trăn ăn : dùng gà con hoặc chuột sống nhử cho trăn đớp ăn, rồi kéo lên thả ra ngoài cho trănnuốt mồi, sau đó đỡ nhẹ bắt thả vào chuồng. – Cứ 3-5 ngày cho trăn ăn một lần. Khi trăn lớn, để mồi bên ngoài cho nuốtsống. Lương thực ăn tăng theo tuổi : 2 tháng tuổi cho ăn 2 con gà ( hoặc 2 chuột nhỏ ), 3 tháng tuổi cho ăn 3 con gà nhỏ. Đối với trăn khi còn nhỏ nếu 7-10 ngày mà không cho ăn thì khi cho thức ăn vào chuồng, trăn sẽ tranh nhauăn, dễ làm chúng bị thương. – Phải có máng chứa nước cho trăn uống hoặc tắm mình cho dễ lột xác. Thường ngày phải dọn sạch phân trong chuồng, số phân thải ra không nhiều, phân khô, ít gây mùi thối : khoảng chừng 5-7 ngày, xả nước một lần. – Sau khi nuôi 4-5 tháng, trâưn dài 0,08 m, nên chọn nuôi riêng thành chănthịt. 3. Nuôi trăn thịtChọn trăn giống khoẻ mạnh, thân hình sống, không dị tật ; con cháu mập, đuôi nhỏ ; conđực đuôi to và thuôn. – Trăn đưa vào chuồng 5-7 ngày cho ăn một lần, thức ăn là gà hoặc chuột, chim cútsống. Có thể luyện cho trăn ăn những con vật mới chết, quan tâm không cho ăn chuột chết haybị đánh bả. + Trăn bắt mồi và quấn chặt làm cho con mồi chết rồi mới nuốt, trăn nuốt mồi chứ khôngcắn xé như 1 số ít con vật khác. Trăn lớn hoàn toàn có thể nuốt con vật 1 kg và nằm ngủ cả thángmới lại ăn tiếp. + Trăn dễ nuôi, 20 ngày đến 1 tháng cho ăn 1 lần vào khi nào cũng được, đái ỉa ít nên íttanh hôi ; chuồng nuôi đơn thuần, ngân sách thấp, diện tích quy hoạnh nuôi không cần rộng. – Trăn nuôi 1 năm hoàn toàn có thể tăng 10-15 kg nếu chăm nom tốt. Hệ số thức ăn : 4-5 kg cho 1 kgtăng trọng. – Mật độ thả : 4 – 5 con / mét vuông. 4. Chất lượng và loại sản phẩm – Thịt trăn được chế biến thành nhiều mẫu sản phẩm. Da trăn hoàn toàn có thể làm ví, cặp, đồ nữ trang. Mỡ trăn dùng chữa bỏng, bôi vào vết ngứa trên da ; những vết thương đang chảy máu sẽcầm máu ngay. Mật trăn ngâm rượu dùng xoa bóp những chỗ đau nhức. – Có thể pha tiết trăn với rượu, uống mát, bổ. Thịt, xương, da trăn nấu cao dùng chongười già, trẻ nhỏ, phụ nữ rất tốt. – Trăn cũng là loại sản phẩm xuất khẩu có giá trị kinh tế tài chính cao. Trung Quốc, Nhật Bản … nhậptrăn làm thực phẩm và thuốc quý … Kỹ thuật nuôi trănCập nhật ngày : 16/12/2012 18:18:58 Trăn là loài động vật hoang dã dễ nuôi, mang lại giá trị kinh tế tài chính cao. Thịt trăn được chế biến thành nhiều mónăn. Da trăn hoàn toàn có thể làm ví, cặp, đồ nữ trang. Mỡ trăn dùng chữa phỏng, bôi vào vết ngứa trên da ; cácvết thương đang chảy máu sẽ cầm máu ngay. Mật trăn ngâm rượu dùng xoa bóp những chỗ đau nhức. Có thể pha tiết trăn với rượu, uống mát, bổ. Thịt, xương, da trăn nấu cao dùng cho người già, trẻ nhỏ, phụ nữ rất tốt. Trăn cũng là mẫu sản phẩm xuất khẩu có giá trị kinh tế tài chính cao. Hiện nay, Trung Quốc, Nhật Bản nhập trănlàm thực phẩm và thuốc quý. Để nuôi trăn đạt hiệu suất cao, cần tuân thủ 1 số ít kỹ thuật sau : – Chọn trăn giống khoẻ mạnh, không dị tật ; con cháu mập, đuôi nhỏ ngắn ; con đực đuôi to và thuôndài, khối lượng từ 100 g trở lên. – Chuồng nuôi thường là hình hộp chữ nhật, có bộ khung bằng gỗ hoặc sắt thép, xung quanh là lướithép, có lỗ nhỏ hơn đầu trăn, cửa ra vào ở mặt trước chuồng và có khoá. Chuồng có chiều dài tốithiểu bằng chiều dài tối đa của trăn, chiều rộng và chiều cao có tỷ suất tương ứng cho tương thích vớihoạt động của trăn và việc chăm nom nuôi dưỡng. – Chuồng, trại nuôi trăn phải phân phối những tiêu chuẩn về nước thải. Cần liên tục vệ sinhchuồng trại thật sạch để tránh những bệnh ghẻ trên sống lưng và bụng. Thức ăn dư thừa cần được dọn dẹphằng ngày. Trăn con phải được tắm rửa mỗi ngày. Có thể dùng thuốc diệt muỗi để diệt mạt trăn. – Thức ăn cho trăn gồm có những loại động vật hoang dã máu nóng như : gà, vịt, ngan, ngỗng, thỏ, chuột hoặcthịt gia súc, gia cầm, hay phế phụ phẩm giết mổ gia súc, gia cầm, trong đó chuột là mồi trăn thíchnhất. Trăn có tập tính ăn mồi cử động, muốn trăn ăn mồi không cử động thì phải tập hay dùng queđung đưa mồi thì trăn mới ăn ( đớp ). Từ 5-7 ngày cho ăn 1 lần, hoàn toàn có thể luyện cho trăn ăn những con vậtmới chết, quan tâm không cho ăn những con vật chết lâu hay bị sình. – Nước uống : Tốt nhất nên phân phối vừa đủ nước sạch và mát cho trăn tắm và uống tự do. Trăn nuôi1 năm hoàn toàn có thể tăng 10-15 kg, nếu chăm nom tốt. Hệ số thức ăn : 4-5 kg cho 1 kg tăng trọng. – Trăn giống cho đẻ : Con đực nuôi từ 20-24 tháng tuổi, nặng từ 6 kg trở lên cho phối là tốt nhất. Concái nuôi từ 30-36 tháng tuổi, nặng từ 20-24 kg thì cho đẻ mới đem lại hiệu suất cao ( trăn cái càng to thìđẻ trứng càng lớn, trăn con to và bán có giá hơn ). – Công tác thú y : Trăn là động vật hoang dã hoang dã mới được thuần hoá, sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, trăn cũng thường bị một số ít bệnh như viêm tấy hàm răng. Mới đầu thấy răng đen, có rỉ, viêm tấy nhỏ màu đỏ, sau chuyển thành màu trắng, có mủ, rụng răng, hàm sưng không ăn được rồichết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp như Ampicyline, Tetracylinehoặc Peniciline + Streptomycin … – Sưng phổi : Trăn biếng ăn, bỏ ăn rồi chết. Điều trị bằng kháng sinh tổng hợp. – Táo bón : Dùng thuốc tẩy dạng dầu bơm vào lỗ huyệt, có khi phải dùng ngón tay móc phân cục ra. Cho ăn thức ăn nhuận tràng … – Viêm cơ dưới da : Dưới lớp da nổi những mụn nước nhỏ bằng hạt bắp, hạt đậu, trăn biếng ăn, không ăn rồi chết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp … – Ký sinh trùng đường ruột : Trăn còi cọc, chậm lớn, trong phân có ấu trùng giun, sán. Đây là bệnhphổ biến gây tai hại nhiều, nguyên do do cho nhà hàng không hợp vệ sinh. Dùng thuốc xổ sán lãicho trăn uống. – Ký sinh trùng ngoài da : Ve ( bét ) bám trên da hút máu và truyền bệnh cho trăn. Dùng thuốc sát trùngchuồng trại thật sạch. / Nông dân thời nay có th làm làm giàu nhanh gọn mà không c n di n tích t quá ể ầ ệ đấr ng b ng vi c áp d ng những quy mô ch n nuôi hi u qu. Mô hình nuôi tr n c a ông ộ ằ ệ ụ ă ệ ả ă ủNguy n V n Ng c L i, p An Nh n 1, xã a Ph c H i, huy n M Cày Nam là m t i n ễ ă ọ ợ ấ ơ Đ ướ ộ ệ ỏ ộ đ ểhình thu lãi hàng tr m tri u ng m i n m. ă ệ đồ ỗ ăMê thích nuôi trăn từ nhỏ, nhờ biết tìm tòi, học hỏi du lịch thăm quan nhiều nơi, anhNguyễn Văn Ngọc Lợi, ấp An Nhơn 1, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam đãchọn con trăn trong tăng trưởng kinh tế tài chính và anh đã rất thành công xuất sắc với quy mô này. Năm 2002, anh Lợi khởi đầu chuyển sang nghề nuôi trăn. Ban đầu với nguồn vốnít ỏi nên anh chỉ mua 10 trăn con với giá 200.000 đồng mỗi con về nuôi thửnghiệm. Sau thời hạn khoảng chừng 1 năm, trăn lớn nhanh đạt khối lượng từ 5-6 kg / con, anh bán lứa trăn tiên phong đã thu được doanh thu trên 30 triệu đồng. Từđó anh đã quyết định hành động mua thêm trăn về nuôi và duy trì nghề nuôi trăn cho đếnnay. Kinh nghiệm nhiều năm nuôi trăn đem lại hiệu suất cao kinh tế tài chính cao anh Lợi cho biết : Nuôi trăn không khó, trăn lớn nhanh nếu phân phối không thiếu thức ăn. Từ lúc nuôitrăn đến nay, khi nào mái ấm gia đình anh Lợi cũng duy trì tổng số ngoài 50 con trăn thịtvà ngoài 200 trăn con. Bình quân mỗi năm, mái ấm gia đình anh bán khoảng chừng 20 con trănvới giá từ 220.000 – 250.000 đồng / kg tùy lọai, trừ đi mọi khoảng chừng ngân sách gia đìnhanh thu lãi từ 120 triệu đồng đến 150 triệu đồng. Hiện tại mái ấm gia đình anh Lợi còn 25 con trăn với khối lượng từ 50 – 60 kg và 15 con trăn khối lượng 5-6 kg. Ngoài nuôi trăn thịt, anh Lợi còn nuôi trăn sinh sản để duy trì đàn. Số trăn hiện tạido anh gầy giống đều do trăn nhà đẻ, ấp nở được nhốt trong chuồng. Trăn cáisinh sản mỗi năm một lần, mỗi lần từ 50 – 60 trăn con, tỷ suất hao hụt rất ít. Trănthường đẻ trứng vào tháng 2 tháng 3 hàng năm, ấp trứng lê dài khoảng chừng 2 tháng trứng mở màn nở ra trăn con. Trăn con rất háo ăn nếu phân phối đủ thức ănthường xuyên ở quá trình này trăn sẽ mau lớn. Trăn ngay khi nở đã biết ăn, thứcăn của chúng là gà con và chuột nhỏ … Đặc biệt trăn là loài máu lạnh, ưa ấm vàrất nhạy cảm với nhiệt độ thấp. Trong suốt thời hạn mùa lạnh trăn rất ít ăn và ítcử động, nông dân không nên cho trăn ăn vào mùa này. Năng lượng cung cấpcho sự sống lúc này là nhờ lớp mỡ tích tụ trong khung hình để duy trì sự sống. Hiện nay, trăn có khối lượng từ 5 – 6 kg, anh Lợi bán với giá từ 250.000 – 270.000 đồng / kg. Trăn có khối lượng từ 30 – 40 kg bán với giá từ 200.000 – 220.000 đồng / kg. Nuôi trăn nhẹ công và ít vốn không sợ rủi ro đáng tiếc hay lỗ vốn. Nuôitrăn cho ăn thức ăn cũng không nhiều nhưng doanh thu rất cao. Trung bình đầutư 6 kg thức ăn, trăn sẽ tăng trọng lên 1 kg. Để giảm bớt ngân sách thức ăn cho trănanh Lợi tìm mua những con mồi như : gà con và heo con chết ngạt, giá thấp từ15. 000 – 20.000 đồng / kg để có nhiều lời hơn. Theo anh Lợi đo lường và thống kê nếu đầu tư6 kg thức ăn, trăn sẽ tăng trọng 1 kg. Với giá thức ăn cho trăn trung bình khoảng60. 000 đồng đến lúc bán trăn mỗi kg trăn bán được trung bình 250.000 đồng, nông dân lãi gần 200.000 đồng mỗi kg trăn. Chuồng là yếu tố quan trọng trong khi nuôi trăn, bởi trăn rất khỏe. Chuồng đượcđóng thùng hình chữ nhật bằng cây ở lớp trên và lớp dưới, xung quanh đượcphủ kín bằng lưới chì lỗ vuông để tạo sự thông thoáng cho trăn. Nhốt trăn ởtrong chuồng đậy nắp cẩn trọng để trăn không xổng chuồng mà đi. Cách khoảng1, 5 tháng anh Lợi vệ sinh chuồng một lần tránh hôi thối mùi thức ăn còn dư thừa. Trăn là loài háo nước, trong chuồng khi nào cũng dự trữ nước để phân phối nướcuống cho trăn, nếu bị thiếu nước sẽ làm lớp da bên ngoài bị khô và dễ bongtróc, Nuôi trăn khỏe mạnh thông thường, cách 2 tuần cho ăn một lần hoặc có thểmỗi tháng cho ăn từ 2 – 3 lần. Khi trăn lớn nên tách ra nhốt riêng tránh để chungchuồng vì trăn sẽ tranh giành thức ăn với nhau. Theo anh Lợi : nuôi trăn là cáchphát triển kinh tế tài chính nhanh và vững chắc mà không sợ rủi ro đáng tiếc. Để tiết kiệm ngân sách và chi phí chi phíthức ăn người nuôi hoàn toàn có thể tận dụng những động vật hoang dã hoang dã như bẫy chuột trêncây dừa làm thức ăn cho trăn, vừa bảo vệ hiệu suất vườn dừa không bị chuộtxâm hại còn có lợi so với việc nuôi trăn. Từ nuôi trăn đạt hiệu suất cao cao của anh Lợi, ở địa phương có nhiều nông dân đếntham quan và nhân rộng quy mô. /. QUY TRÌNH NUÔI TRĂN HIỆU QUẢ ( Trăn ) THỜI GIAN SẢN PHẨM VÀ LIỀU DÙNGTHỜI ĐIỂMGIAO PHỐI ( 2 tuần x 1 lần ) Để tăng thể lực, nên trộn thức ăn hoặc pha nướccho uống. Mỗi 5 kg thể trọng : • MD REDMIN ( 1 ml ) SAU KHIGIAO PHỐI ( 1 lần ) Để trăn đậu thai tốt, đẻ trứng nhiều, nên trộn thứcăn hoặc pha nước cho uống. Mỗi 5 kg thể trọng : • MD REDMIN ( 1 ml ) TRONG KHIMANG THAI ( Hằng ngày ) Trộn thức ăn, cho mỗi 5 kg thể trọng : • MD SELEN E ( 1 g ) • MD REDMIN ( 1 ml ) SAU KHIĐẺ TRỨNG ( 1 tuần x 1 lần ) Để trăn ấp nở trứng tốt, trộn thức ăn hoặc pha nướccho uống. Mỗi con : • MD REDMIN ( 2-3 ml ) TRĂN CONSAU KHI ẤP NỞ ( 1 lần ) Nhỏ vào miệng mỗi trăn con : • MD REDMIN ( 0.2 ml ) TRĂN CONTẬP ĂNSau 7-8 ngàyĐể trăn con lớn nhanh, trộn vào mỗi kg thức ăn : • MD REDMIN ( 1 ml ) TRĂN1 THÁNG TUỔITRỞ LÊN ( 1 tháng x 1-2 lần ) Để trăn tiêu hóa tốt, trộn vào mỗi kg thức ăn : • MD COLINEOCIN ( 3 g ) Để nuôi trăn mau lớn, tiêm 1 tuần 1-2 lần x 3 tuần. Cho mỗi 5 kg thể trọng : • MD ANALGIN TD ( 1 ml ) • MD BETA ( 1 ml ) • MD CATAMIN ( 1 ml ) 1 / Giá trị kinh tế tài chính của trăn : Ngoài việc khai thác trăn làm thực phẩm, con người cũng đã khaithác trăn như một nguồn dược liệu quý : – Lấy da trăn đem đốt thành than, tán bột rồi trộn lẫn với mỡ, bôitrị ghẻ rất hiệu nghiệm. – Mật trăn ngâm trong rượu dùng để xoa bóp những vết thương tụmáu, nơi có những khớp bị sưng đau, công dụng tương tự mật gấu, cùng dùng để chữa mắt sưng, vùng bụng tim đau như có trùngcắn, bộ phận dưới âm hộ trùng ăn lở loét ( Danh y biệt lục ). – Thịt trăn làm chà bông cho sản phụ ăn hằng ngày giúp mauchóng lấy lại sức, giảm đau nhứt và tê mỏi ( Đỗ Huy Bích, 1979 ) – Mỡ trăn chưá nhiều hợp chất béo như palmitin, olein … dùng đểtrị bệnh ngoài da. ( Theo lương y Đinh Bà Luyện và dược sĩ DiệuPhương ). – Xương trăn đem nấu cao uống có công dụng chữa đau lưng, nhứtxương, nhất là đau cột sống. – Máu trăn pha với rượu uống có tính năng bổ máu, chữa bệnhchống mặt, hoa mắt. 2 / Đặc điểm : Trăn thuộc lớp bò sát. Kích thước của trăn biến hóa từ 50 cm – 10 mnhưng hầu hết có cỡ trung bình và lớn. Ở phần cuối của thân, ngayphía trước hậu môn còn có di tích lịch sử của đai hông và xương đùi màmột phần lộ rõ ra ngoài thành 2 cựa giống như cựa gà. Có 2 phổiphát triển vừa đủ mặc dầu phổi bên phải dài hơn bên trái. Cácxương hàm khớp lỏng lẽo với nhau và có năng lực cử động linhhoạt, nhờ đó trăn hoàn toàn có thể há miệng nuốt được những con mồi rấtlớn. Cả hai hàm đều có răng mọc hơi xiên, có răng phiá trước dàihơn những răng nằm phiá trong và không có nọc độc. Hệ cơ thân rấtkhoẻ, được sử dụng để quấn và giết mổi. Số lượng đốt sống rấtlớn, biến hóa từ 300 – 450 đốt. Màu sắc khung hình đổi khác tuỳ loàinhưng thường có những hoa văn hình mạng lưới ở mặt sống lưng tạonên sắc tố ngụy trang giúp con vật hoàn toàn có thể phục kích để rình mồirất tài tình. Hiện nay trên quốc tế có khoảng chừng 22 giống, 80 loài. Trăn là động vật hoang dã ưa ấm và ẩm, chịu được một cách thuận tiện vớinhiệt độ cao về muà hè nhưng chúng rất nhạy cảm với lạnh. Ở cáctỉnh phiá Bắc về muà đông trăn phải tìm những nơi kín kẽ để trúẩn qua mùa đông giá rét còn ở đồng bằng Nam bộ, trong mùa khôtrăn phải chui rúc mình dưới những lớp cỏ để tránh nóng. Trong suốtthời gian trú đông và trú khô, trăn nằm yên một chỗ, động tác hôhấp không thấy rõ ràng, quy trình trao đổi chất giảm xuống ở mứcthấp nhất, và nguồn năng lượng phân phối cho sự sống lúc này hầu hết làdo khối lượng mỡ được tích trữ vào cuối muà thu hay cuối muàmưa. Chu kỳ hoạt động giải trí ngày của trăn khá rõ nét. Trăn hoạt độngchủ yếu và đêm hôm còn ban ngày thường tìm những nơi kín đáođể ẩn nấp. Trong chuồng nuôi, tất cả chúng ta sẽ quan sát thấy trăn suốtngày nằm quấn tròn thành một cục, ngủ li bì. Thời gian hoạt độngtuỳ thuộc vào lưá tuổi. Nói chung trăn nhỏ ra kiếm ăn sớm hơntrăn trưởng thành. 3 / Làm chuồng nuôi : Chuồng nuôi là yếu tố quan trọng khi nuôi trăn bởi trăn rất khoẻ, nếu nó chui được đầu thì sắt 8-12 li đểu bị trăn bẻ gãy. Chuồng hoàn toàn có thể làm bằng gỗ thanh, nan tre, sắt, lưới mắt cáo … cókhe, lỗ rộng từ 1-2, 5 cm ( tuỳ loại trăn nuôi ) để tiện vệ sinh vàkhông cho trăn chui ra ngoài. Kích thước ô chuồng cao 0,6 – 0,7 m, rộng 0,5 – 0,6 m, dài 24 m. Vớidiện tích này hoàn toàn có thể nhốt những loại trăn theo số lượng : trăn sơ sinh0, 5 kg / con nhốt 8-12 con, từ 0,7 – 2 kg / con nhốt 5-7 con, từ 2,5 – 5 kgnhốt 3-4 con, từ 5 kg trở lên nhốt 2-3 con. Nơi có điều kiện kèm theo đất rộng nên làm chuồng phối hợp với khu vườnrừng chăn thả, có rào lưới sắt tráng kẽm chắc như đinh. 4 / Giống nuôi : – Trứng giống sau khi ấp 53-55 ngày nở ra trăn gi6óng. Nuôichúng bằng thức ăn : gà con mới nở, chuột nhỏ, chim cút nhỏ. Khoảng 3-5 ngày dùng gà con hoặc chuột sống nhử cho trăn đớpăn, kéo lên thả ra ngoài cho trăn đớp mồi, sau đó bắt đỡ nhẹ thảvào chuồng. – Cứ 3-5 ngày lại cho trăn con ăn một lần : có lần trăn lớn, bắt mồithả ra ngoài cho nuốt xong lại ăn tiếp con thứ 2. Số lượng cho ăntăng thêm theo tuổi nuôi, 2 tháng tuổi cho ăn 2 con gà hoặc chuộtnhỏ, 3 tháng tuổi hoàn toàn có thể cho ăn 3 con gà nhỏ, sau thời hạn 7-10 ngày không cho thức ăn vào chuồng, trăn tranh nhau ăn sẽ cắnnhau, làm trăn bị thương, sinh bệnh. Phải có máng chứa nước cho trăn uống hoặc tắm mình vào nướccho dễ lột da. Thường ngày phải dọn sạch phân trong chuồng, sốphân hàng ngày thải ra không nhiều, phân khô, ít gây mùi thối, khoảng chừng 5-7 ngày xả ít nước hoặc đưa trăn ra tắm trong chậu nước, cho trăn dạn người và thật sạch. Trăn giống nuôi sau 4-5 tháng thì dài khoảng chừng 0,8 m nên chọn nuôiriêng thành trăn thịt. 5 / Kỹ thuật nuôi : Thức ăn cho trăn đa phần là những động vật hoang dã cò máu nóng ( gà, vịt, chim cút non …, thú có guốc nhỏ ( thịt heo, bò, dê, cheomễn … ), những loài gặm nhấm ( thỏ, chuột … ) Nước là một yếu tố thiết yếu cho đời sống của trăn, tuy rằng nhucầu không nhiều và liên tục vì lượng nước có trong thức ănđã đủ cho nhu yếu khung hình. Sau khi ăn xong, trong quy trình tiêuhoá trăn cần uống nước. Những ngày nóng giãy và đặc biệt quan trọng khi sắpthay da trăn trầm mình trong nước. Nước giúp nó lột xác mauchóng và thuận tiện hơn thiếu nước lớp vẩy sừng thường bị sát khóbong. Vì vậy, trong chuồng nuôi thiết yếu phải có một chậu nướccho trăn. 5.1. Nuôi trăn thịt : Trăn con từ 1 tháng tuổi đến 0,5 kg, 1 tuần cho ăn 1 lần, hết 0,5 kgthức ăn trong 1 tháng. Trăn từ 1 – 5 kg cho ăn 2-3 lần / tháng, mỗi lần từ 1-1, 5 kg thức ăn. Trăn từ 6-10 kg cho ăn 2 lần / tháng, mỗi lần cho ăn từ 1,5 – 1,7 kgthức ăn. Trăn trên 10 kg, cứ 8-20 ngày cho ăn 1 lần, mỗi lần từ 3-5 kg thứcăn. Ngoài ra, còn cần chú ý quan tâm bổ trợ thêm những loại vitamin B1, B6, B12, C, A, D, E, PP … hoà vào nước cho uống sau mỗi lần trăn ănhoặc uống trực tiếp. 5.2. Nuôi trăn sinh sản : Thông thường trăn sống đơn độc. Chỉ đến muà sinh sản nhữngcon trăn đực và trăn cái mới tìm đến nhau. Muà phối giống củatrăn từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau. Thời gian phối tốt nhất làtháng 11-12. Trước muà phối giống 1 tháng cho con cháu ăn thật nođể có đủ dinh dưỡng tích mỡ và tạo trứng. Tuổi trăn phối giống là 28-30 tháng tuổi. Khi trăn cái muốn giaophối thường tiết ra mùi đặc hiệu để dụ con đực. Lúc này thả trănđực khoẻ mạnh có khối lượng bằng hoặc to hơn vào, chúng xoắnxuýt, giao phối với nhau 1-3 giờ. Nên cho phối kép để đảm bảotrứng thụ thai và có tỉ lệ nở cao. Trăn cái mang thai từ 120 – 140 ngày. Trong thời hạn trăn cái cóchửa không cho ăn hoặc cho ăn mỗi lần một chút ít để tránh chèn éptrứng. Khi chuẩn bị sẵn sàng đẻ, con cháu bò đi bò lại trong chuồng, đào đất, tìmchỗ trũng, có rơm, cỏ khô để đẻ. Có thể làm ổ đẻ cho trăn bằngbao xác rắn đựng trấu setup vào một góc chuồng, nơi yên tĩnh, tránh gió lùa … Mỗi lần trăn cái đẻ từ 10-100 quả trứng. Sau khi đẻ hết trứng vàoổ, trăn cái tự cuộn tròn lại trên trứng để ấp. Khi trăn ấp nên kiểmtra vài lần, nếu thấy những quả trứng to đều, trắng, khô ráo, vỏ lángbóng là trứng tốt những quả quá to hay quá nhỏ, vỏ xỉn vàng … làtrứng hỏng phải vô hiệu. Thời gian ấp trứng 53-55 ngày thì nở. Trăn con tự mổ vỏ trứngchui ra. Sau 1-2 ngày có những con trăn yếu không tự mổ vỏ chuira, phải đem thả những quả trứng này vào nước ấm kích thích đểtrăn con tự mổ vỏ chui ra. Còn quả nào chưa nở, ta tương hỗ bằngcách xé vỏ dài 1 cm, lần tìm đầu trăn con nhẹ nhàng kéo ra. Trănmới nở dài 50-60 cm, nặng 80-140 g. Trăn con sau khi nở hoàn toàn có thể tự sống 3-5 ngày bằng khối noãnhoàng tích ở trong bụng. Sau thơì gian này, bụng trăn con xẹp lại, da nhăn nheo và lột xác tiên phong. Trăn khỏe mạnh bình thườngcho ăn 4-5 lần / tháng, trăn yếu cho ăn 10 lần / tháng. Thức thíchhợp thịt lợn nạc, thịt bò, trâu, dê … tươi ngon thái nhỏ. Cách cho trăn con ăn : Dùng một qua nhỏ vót tà đầu ghim vàomiếng mồi, tai trái đứng đầu trăn, tay phải cầm que đưa thức ănvào miệng trăn. Không được thọc que vào sâu trong họng dễ gâythương tích. Sau khi đã cho mồi vào miệng trăn, không được rútngược que mà gạt ngang que về phiá mép trăn, để miếng mồi lại. Trong quy trình thao tác cần phải rất là nhẹ tay để tránh làm gẫyrăng hoặc đánh rơi trăn từ trên cao xuống đất. 5.3. Cách phân biệt trăn đực, trăn cái : Cũng giống như những loài rắn khác, việc phận biệt một con trănđực với một con trăn cái thật không đơn thuần vì chúng có hìnhdạng và sắc tố gần giống nhau, mặt khác chúng lại có cơ quansinh sản nằm bên trong khung hình nên rất khó phân biệt. Thường rắnđực có đuôi dài hơn và phần đầu của đuôi ( nơi tiếp giáp với hậumôn ) hơi phình ra, trong khi ở con cháu thì hơi thắt lại. Kích thướcvà khối lượng của trăn đực cũng thường nhỏ hơn trăn cái, số vâybụng ít hơn nhưng có đuôi dài và số lượng vây đuôi nhiều hơn. Trăn đực có 2 mấu ngựa nằm hai bên khe huyệt trông tực nhưchiếc cựa chân gà, có lẽ rằng là cơ quan dùng để kích thích trăn cái khigiao phối. – Trăn đực : Thân thon dài, có 2 cựa dài ở hai bên hậu môn lộ rangoài, vẩy hậu môn to, chóp vẩy tù. Vẩy quanh hậu môn nhỏ xếpxít nhau, ấn mạnh tay vào hai bên huyệt thấy cơ quan giao cấu lộra. – Trăn cái : Thân to mập, cựa hai bên hậu môn ngắn, nằm ẩn sâubên trong. Vẩy quanh hậu môn to, xếp không sít nhau, không thấycó cơ quan giao cấu. Lưu ý : – Trăn nuôi lúc đói, lột xác, đang ấp trứng … thường rất hung ác, chúng rất nhạy cảm với những loại mùi thuốc lá, hành, tỏi, dầu sả … nên cần tránh những mùi này. Nhưng nếu trong trường hợp bị trăncắn, bạn chỉ việc nhét một nhúm thuốc rê vào miệng, lập tức trănsẽ nhả ra. – Trăn nuôi khi ăn no rất hiền, thích vuốt ve, cõng bế, về muà hèrất thích dầm nước. Vì vậy, trong chuồng, khu chăn nuôi ngoàimáng, chậu uống, cần có chậu to hoặc xây bể để khi nóng bứctrăn bò vào đầm tắm … – Trăn lột xác vào muà hè, trăn non lột nhiều lần hơn trăn già. Lúcsắp lột xác trăn có màu da sẫm hơn, hai mắt trở nên đục mờ, ngừng ăn, tìm chọn những nơi có nước, gần nước để nằm. Thờigian lột xác thường lê dài từ 1-2 tuần .