Truyện thiếu nhi

NHỮNG TIẾNG CHIM Mùa hè năm ấy, có một chú chim Chiền Chiện từ ngoài đồng lúa bay vào làng nghỉ trên cây Chanh trong khoảng chừng vườn nhỏ bé. Suốt ngày đêm nó cất tiếng hót. Nghe tiếng chim hót mọi vật đều thức tỉnh. Và ngỡ như ngoài tiếng chim Chiền Chiện, những âm thanh khác trở nên yếu ớt, xa xôi hẳn. Cây Cau trang nghiêm, cây Mít oai vệ, cây Cỏ nhỏ nhoi đều nói :

– Tiếng chim Chiền Chiện mới tuyệt vời làm sao!

Bạn đang đọc: Truyện thiếu nhi

Trong khoảnh vườn ấy có một chú Chích Chòe ở trên bụi tre và một cô Bìm Bịp ở trong tán Mưng già. Một đêm trăng như vàng lỏng chảy tràn trên lá cây, trên mặt đất, Chích Chòe bồi hồi cất tiếng hót : – Ch … ích ! Ch … òe ! Ch … ích ! Ch … òe ! … Cây trong vườn lao xao : – Tiếng hót gì mà như mảnh sành rơi trên sân gạch làm ta thêm buồn. Chích Chòe tủi thân bỏ vườn cây ra bờ hồ ở trên một cây Mua hoa trắng. Hôm sau gió thơm nồng mùi đất ải và thoang thoảng mùi ngải cứu, Bìm Bịp xúc động cất tiếng hót : – Kiệp ! Kiệp ! K. .. iệp ! K. .. iệp ! … Cây trong vườn lao xao : – Tiếng hót gì mà nghe như tiếng cuốc bổ xuống bùn đen. Bìm Bịp buồn, bỏ vườn cây ra sống trên cây Bần bên sông. Trong vườn, cây nói với nhau : – Tiếng chim Chiền Chiện là tuyệt vời nhất. Lá thì rỉ tai : – Thần tiên sao tiếng chim Chiền Chiện ! Chiền Chiện nghe, vươn cổ cất tiếng hót thánh thót. ở bờ hồ, cây Mua hỏi Chích Chòe : – Sao Chích Chòe không hót ? Chích Chòe vấn đáp : – Sẽ có lúc. Ven sông, cây Bần hỏi Bìm Bịp : – Sao không nghe chim hót ? Bìm Bịp đáp : – Sẽ có dịp ! … Bấy giờ mặt trời nóng bỏng và huy hoàng không Open trên khu vườn nữa. Không gian se lạnh và âm u. Những đám mây đen chẳng biết từ đâu kéo về, như những cánh chim khổng lồ ướt át lửng lờ bay. Chiền Chiện bỏ vườn cây bay về dãy núi đá bên kia cánh đồng trống trải. Vắng tiếng chim hót, vườn cây lặng im. Từ cây cau trang nghiêm, cây mít oai vệ, cây cối nhỏ nhoi buồn xuội lá. – Thèm tiếng chim hót quá ! – Cây cối thì thào. Ngọn gió chở lời cây ra tận bờ hồ mách với Chích Chòe. Chích Chòe bay qua bảy đám ruộng đến bờ sông mách với Bìm Bịp. – Chiền Chiện đi trú rét rồi, cây đang thèm nghe tiếng chim. Đã đến lúc ta phải hót lên. Bìm Bịp gật đầu. Và sau đó, tiếng “ Ch … ích ! Ch … òe ! Ch … ích ! Ch … òe ! ” vang lên bên hồ, tiếng “ Kiệp ! Kiệp ! K. .. iệp ! ” vang lên ven sông. Tiếng chim vọng vào vườn cây. Cây nghiêng mình lắng nghe. Bốn phía xung quanh bỗng rối loạn : Tiếng lá ngã vào nhau, tiếng cành cựa mình, tiếng gió reo, tiếng ánh trăng trôi trên cuống hoa … Tiếng hót của Chích Chòe và Bìm Bịp đã làm thức dậy niềm vui trong khoảnh vườn lâu nay chỉ quen nghe mỗi tiếng chim Chiền Chiện. Đêm ấy sao mà sương rơi nhiều đến thế. Cứ như là nước mắt của cây. Cây khóc vì hối hận và vì vui mừng ! CHIM BÃ TRẦU VÀ CÂY PHONG LÁ ĐỎ Ngày xưa … có một con chim Bã Trầu ở trên cây Bưởi Đường. Đấy là một cây Bưởi cao vượt những ngọn cây khác trong vườn. Ngày nào cũng vậy, suốt từ sáng tinh mơ đến tận khuya, gió mùa quật quả làm cây Bưởi rung lên, nghiêng ngã. Nhà ở của Bã Trầu hình quả trứng kết bằng những sợi tơ trắng dính dưới một cái lá Bưởi tươi mơn mởn thủng lỗ chỗ. Cây Bưởi Đường buồn xuội lá vì không bảo vệ được chim trước sự tàn phá của gió. Bã Trầu biết vậy, nó nhìn cây Bưởi mấy lần rồi bay về phía cuối vườn. Gió quật vào lông, lạnh cứa vào da thịt. Nó mệt nhoài, hạ cánh xuống cây Phong nằm cạnh sân đất rộng. Cây Phong xòe những cái lá to, rộng ủ ấm che gió cho chim. Từ bữa ấy, Bã Trầu ở với cây Phong. Chúng gắn bó, yêu quý nhau rất mực. Sáng sớm, trước khi đi kiếm thức ăn, chim hôn lên cây Phong và khi chim cất cánh, hàng chục cái lá Phong rung lên như những bàn tay lưu luyến vẫy. Tối chim về, cây Phong vui mừng xòe lá đón. Những đêm trăng khoảng trống trong ngần, trời xanh như nhung dính đầy những ngôi sao 5 cánh lộng lẫy và gió thì thơm lừng hương hoa, hương cỏ, chim và cây chuyện trò, ca hát. Chúng nói những lời yêu thương, hát những bài ca ngợi ca về vẻ đẹp của đời sống. Giọng Bã Trầu “ Lích ! Tích ” tròn vo, giọng cây lao xao nhiều âm sắc … Ngày xưa có một con chim Bã Trầu kết bạn với cây Phong lá xanh … Một hôm chim Bã Trầu đi kiếm thức ăn bị một cơn bão khan cuốn lạc vào rừng rậm. Ở nhà cây Phong lúng túng ngóng chờ. Ban đêm cây Phong ướt đẫm nước mắt. Ban ngày lá Phong cong mình. Nó nhìn về chân trời đằng tây chờ hoàng hôn rực đỏ. ấy là lúc trước kia, chim Bã Trầu quay trở lại với nó. Một ngày, hai ngày … Rồi nhiều ngày trôi qua … Nỗi đợi chờ làm cho những cái lá Phong màu xanh chuyển dần sang màu đỏ. Rồi chim Bã Trầu sau một thời hạn lưu lạc tìm đường ra khỏi rừng rậm trở lại với cây Phong. Bấy giờ trời vừa tưng mưng sáng. Không gian, khung trời, mặt đất yên tĩnh lạ lùng. Chim Bã Trầu sa vào lòng cây Phong. Lá Phong xúc động rung lên. Tiếng “ Lích ! Tích ! ” của chim, tiếng xào xạc của lá làm thức dậy những âm thanh sáng sớm vang lừng : Tiếng gió reo, tiếng gà con gọi mẹ, tiếng cây cối vươn mình … và tiếng những hạt sương có sắc cầu vồng rơi thánh thót … Ngày xưa … Có một con chim Bã Trầu kết bạn với cây Phong lá đỏ. CÓ MỘT CHÚ DIỀU NHƯ THẾ Bấy giờ là một buổi chiều trời lặng gió, nóng ngột ngạt và im ắng lạ lùng. Tôi nằm trên vai một cậu bé qua sông về xóm Phú Giang – một cái xóm không đẹp và nhỏ, vỏn vẹn hai chục nóc nhà xúm xít ven sông. Tôi bỗng thấy luyến tiếc nơi ở cũ. ở đó xóm làng lê dài hàng dặm, nhìn mỏi mắt. ở đó có cánh đồng bát ngát dưới khung trời bát ngát. ở đó không khí ngọt ngào mùi cỏ mật và gió thổi lồng lộng từ sáng đến tận khuya. ở đó có ông lão nuôi tôi, bộ râu và mái tóc bạc phơ đẹp như trong truyền thuyết thần thoại. Ông lão “ nuôi gió ” tài lắm, chỉ vài giây thôi tôi đã ở tít trên trời cao ngất … Còn cậu bé này ? Tôi buông ra một câu hỏi và nhìn cậu bé chờ đón. Tôi không phải chờ lâu. Ngay chiều ấy, cậu bé đã đưa tôi ra cánh đồng trước làng. Cậu bé lờ đờ buộc dây vào bụng tôi lâu đến nỗi tôi có cảm xúc gió trên toàn cầu đã thổi mất hết. Rồi cậu ta “ nuôi gió ” cho tôi ; việc ấy quả là cậu chưa quen. Tôi chao đảo, loạng choạng một lúc lâu mới lên khỏi ngọn tre. ở độ cao này trở lên tôi không còn phải nhờ vả ai nữa. Gió của trời đất ứ đầy bụng, tôi cứ lao lên, lao lên. Tôi lên cao hơn ngọn tre, cao hơn ngọn bạch đàn hình tháp, cao hơn ngọn cau, rồi cao hơn cây đa như một quả núi đầu làng, cạnh bên sông. Trên đầu tôi khung trời trong xanh, phẳng phiu, không một gợn mây. Sau sống lưng tôi, ông mặt trời đỏ lựng đang tỏa ánh hào quang bùng cháy rực rỡ xuống dãy núi nhấp nhô vô tận. Và ở phía ấy, tôi thấy những con chim nhỏ bé bay lừ đừ đến tội nghiệp. Dưới tôi, xóm Phú Giang và cánh đồng đang nhỏ dần. Con sông hồi trưa rộng bát ngát giờ mờ và nhỏ đi như cái khăn quàng cổ trẻ nhỏ. Nhà cửa lùn tịt như những cái nấm. Cây cối thấp lè tè. Gà, vịt, trâu, bò, ngan, ngỗng đang ngửa cổ nhìn tôi hau háu. Tôi thấy trong người sảng khoái lạ kỳ. Tôi cười, rồi tôi hát. Tiếng hát vi … vu. giọng tôi vốn ở gam rê thứ, nên nó vút lên cao thì nhiều mà sà xuống đất thì ít. Chắc rằng lúc này cả mặt đất đang nín thở nghe tiếng hát của tôi. Tôi bay. Tôi bay lên cao. Bây giờ thì tôi không chỉ cao hơn mọi vật trên xóm Phú Giang, mà đã cao hơn ông mặt trời đỏ rực và dãy núi nhuốm ráng đỏ. Cứ đà này chẳng mấy chốc tôi sẽ đặt chân lên nền nhung trời biếc kia. Tôi sẽ mãi mãi ở trên đó. Ban ngày tôi sẽ cùng ông mặt trời liên tục cuộc hành trình dài muôn thuở và đầy mê hoặc của ông ta. Ban đêm tôi sẽ đến chơi những vì sao và hỏi họ xem có cái gì trong mắt họ mà chói chang mà lộng lẫy dường vậy. Đột nhiên một đàn chim Chiền Chiện từ dưới đất bay vút lên phía tôi. Bọn chúng vừa bay vừa thánh thót. Tôi liếc nhìn xuống và nói : – Bao giờ thì những bạn nhỏ bay đến tầm cao như tôi ? Không khi nào. Tốt nhất thì những bạn hãy biết điều mà quay trở về với đất. Bọn Chiền Chiện không nghe hay là chúng cố ý không nghe lời tôi, chúng vẫn cứ bay lên vun vút. Tôi đã trông rõ những đôi mắt như những hạt đậu đen và thấy cả ánh hồng nhuốm trên da thịt chúng. Và hình như tôi còn nghe cả hơi thở của con chim đầu đàn. Dẫu sao chúng cũng không hề bay cao bằng tôi, đừng nói là cao hơn tôi. Tôi chao mạnh cánh và hát hết cỡ. Chưa khi nào tôi có giọng hát hay và vang xa đến thế. Nhưng ngay lúc ấy, bọn Chiền Chiện đã vượt qua tôi, ở phía trên đầu tôi. Tôi cố lao lên. Bỗng có cái gì giật mạnh dưới bụng tôi. Tôi nhìn xuống. Tít dưới mặt đất, cái cọc tre đang níu giữ sợi dây. Tôi kêu lên : – Cọc Tre kia ơi ! Hãy thả tôi ra. Cọc tre nói : – Đừng lồng lên dữ vậy. Tôi sẽ không giữ nổi anh đâu. – Không khiến mày giữ. Hãy thả sợi dây ra. Giọng Cọc Tre bình tĩnh đến nỗi tôi không còn biết ra làm thế nào : – Hãy nghe tôi, anh Diều Sáo. Nếu không, anh sẽ lộn cổ xuống ao. Tôi gào lên : – Hãy thả tao ra. Tao thì tao sẽ nhổ mày ra khỏi mặt đất. Và tôi cố sức lồng lên. Sợi dây săn xoắn lại. – Anh … nghe … t … ôi. – Giọng Cọc Tre đứt ra từng khúc. Tôi biết là nó đau dữ lắm. Mặc ! Bọn Chiền Chiện chẳng đã bay cao hơn tôi đó sao. Bỗng “ phựt ”. Sợi dây đứt ngang. Tiếp đó là tiếng kêu “ Trời ” thảng thốt của Cọc Tre. Tôi chưa kịp mừng vì không còn kẻ níu giữ, thì người đã chung chao, chung chao. Ông mặt trời nhào lộn. Dãy núi đỏ nghiêng ngửa. Mặt đất quay vòng. Gió réo ù ù. Nắng đốt cháy mọi vật thành khói. Tôi cố sức đứng vững nhưng vô ích. Tôi nhận ra thực sự hung tàn là tôi đang rơi. Làng Phú Giang, cậu bé … trâu … bò … gà … vịt … ngan … ngỗng bỗng lớn nhanh một cách kinh điển. Và dòng sông bát ngát tựa biển. Tôi vừa rùng mình một cái thì sóng đã chồm lên người. Tôi lặn ngụp trong nước. Hai ba lần tôi cố nhoi lên đều bị sóng nhấn xuống. Tôi thấy đau nhức khắp người, biết là da thịt bằng giấy bản của mình đang rách bươm. Rồi tôi mê man. Có cái gì vuốt nhẹ lên người. Bóng ai thoang thoáng trước mắt. Tôi tỉnh lại, thấy mình đang nằm trên mặt đất giữa cánh đồng. Bóng nhà cửa, cây cối trong làng đổ ra tận chỗ tôi nằm, che lên người tôi. Tôi nhìn tôi và nhận ra tấm thân của tôi méo mó một cách thảm hại. Tôi muốn khóc quá chừng, dẫu rằng từ thuở sinh ra đến nay tôi chưa hề biết khóc. – Thôi đừng khóc nữa. Tôi nhận ra đây là lời nói Cọc Tre, nhận ra Cọc Tre đang đứng sát bên tôi. Tôi ngượng, quay nhìn chỗ khác. Cọc Tre đã lại nói tiếp : – Nếu lúc ấy anh nghe tôi … – Phải, lúc ấy tôi nghe anh thì đâu đến nỗi … – Không biết tôi nói câu ấy có được rõ ràng không vì tôi đang khóc, khóc to hẳn hoi. * * * Chú Diều Sáo được cậu bé như một bác sĩ năng lực chữa cho lành lặn. Vào một buổi trưa lặng gió, chú đã kể cho tôi nghe câu truyện trên bằng một giọng run run xúc động và lộ rõ sự ân hận. Kể xong, chú nhờ tôi chép Tặng Kèm những bạn, để những bạn biết rằng trên đời có một chú Diều như vậy. Tôi đã làm theo lời chú. Biết sao. Vì chú Diều Sáo chẳng biết chữ o tròn hay vuông mà. /. HOA CÚC VÀNG Một con chim hay một ngọn gió lành nào đó, vào một buổi sáng sương mù để rơi một cánh Cúc Vàng xuống bãi đất bồi ven sông. Bãi đất ấy hình quả trứng nhỏ đến nỗi không có trong cả sổ địa bạ của hợp tác xã, lại nằm cách xa làng xóm nên chẳng một ai chú ý. Không nói hết nỗi vui mừng của bãi đất bồi khi cánh Cúc nhẹ nhàng đặt mình vào lòng nó. Nó dồn toàn bộ chất phì nhiêu tích tụ qua bao năm tháng của mình cho cánh hoa. Mấy ngày sau cánh Cúc nở một mầm cây trắng xanh. Bây giờ là những ngày cuối xuân. Bầu trời trong xanh, cao vời vợi. Từ sáng tới tận khuya khoảng trống vang lừng âm thanh. Cây Cúc lớn nhanh như thổi. “ Ta không còn là một bãi đất trống ” – bãi đất nghĩ. “ Cạnh ta có cây xanh, nó sẽ soi gương vào ta ” – dòng sông thủ thỉ. Ngày tiếp ngày trôi qua. Cây Cúc nở một bông hoa vàng. Hoa Cúc Vàng sinh ra vào một buổi bình minh, trời đất nhuốm màu hồng rực rỡ tỏa nắng. Dòng sông rì rào. Chim bay tầng thấp, tầng cao rót tiếng hót vào da trời trong xanh … Tưởng như bông Cúc Vàng đã làm thức dậy buổi sáng thần tiên trên bãi đất ven sông này. Cũng từ buổi sáng thần tiên ấy, ông mặt trời tốt bụng suốt ngày rót vàng xuống bãi đất ven sông. Chị gió dành ngọt ngào, ấm cúng cho bãi đất ven sông. Bông Cúc vốn đã đẹp, càng đẹp rực rỡ tỏa nắng hơn. Trên toàn cầu từ thuở hồng hoang đến nay chưa một ai có vẻ đẹp như nó. Những cánh thon nhỏ bé như những cái kim vàng trong truyện cổ tích và khuôn mặt nó nhìn vào, kẻ dữ cũng thành hiền, kẻ yếu trở nên mạnh, kẻ thiếu tín nhiệm không có bản lĩnh cũng thấy cuộc sống thật tươi tắn, niềm hạnh phúc. Bông Cúc Vàng hiểu điều đó, sự biết ơn bãi đất bồi ven sông càng sâu nặng trong lòng. Nó ngoảnh mặt xuống đất, để sắc tố óng ánh tỏa nắng rực rỡ hơn, để mừi hương, dẫu không nồng nàn lắm, ngọt ngào hơn. Rồi một buổi sáng có một đàn bướm từ bên kia sông bay sang. Chúng sà lượn quanh bông Cúc Vàng, những cái cánh mỏng dính run lên vì xúc động. Thậm chí nhiều con bướm nâu đã từng đi khắp xứ đông xứ đoài, hôn lên hàng nghìn đài hoa đủ màu đủ sắc cũng phải sửng sốt trước vẻ đẹp của bông Cúc Vàng. Chúng nói với nhau : – Thương bông hoa quá ! – ừ, thương thật ! – Đẹp dường vậy mà ở nơi hẻo lánh này quả phí quá ! Cây Cúc giận xanh mặt, vung những cành cứng ngắc đuổi lũ bướm nâu. Lũ bướm đi rồi, cây nói với hoa : – Con đừng để bụng những lời của bọn bướm nhởn nhơ ấy. Sắc đẹp và lòng tốt ở đâu cũng có ích, con ạ. Mẹ tin con không bỏ nơi này ra đi. Không ! Bông Cúc Vàng không hề có dự tính ấy. Dẫu chỉ nghĩ xa bãi đất bồi ven sông, nó đã khổ tâm lắm rồi. Nhưng trong tâm hồn trong trắng của nó vởn lên một nỗi hoài nghi : có phải vẻ đẹp, mừi hương tạo hóa phú cho nó, đất và cây tạo ra sự cho nó là thừa thãi, là vô ích ? Nỗi hoài nghi tan đi rồi hiện lại khi nó thấy lũ bướm không sang và một đàn chim bay qua trên đầu về vườn cây xanh rờn bên kia cánh đồng trống trải. … Đất vẫn cần mẫn, hồn hậu dành chất ngon bổ cho hoa. Mặt trời vẫn rót vàng và gió cứ dành ngọt ngào ấm ấp cho bãi đất bồi. Không gian vẫn vang lừng âm thanh. Dòng sông vẫn êm đềm trôi. Rồi một bữa, giọng run run mà rõ ràng, bông Cúc Vàng hỏi cây – Con sống có thừa thãi, vô ích không ? – Không ! Hoàn toàn không ! – Cây xúc động vấn đáp. – Con đã tạo nên vẻ đẹp tuyệt trần và tiếng nhạc thần tiên. Chính con, phải, chính nhờ con mà đời sống ở đây đẹp lên bội phần. Hoa Cúc Vàng nghe những lời ấy xong, nó nhẹ nhàng rơi xuống bãi đất bồi bên sông. Lúc ấy, gần trưa, cao ngất trên trời cao, mặt trời mùa hè bùng cháy rực rỡ, nóng bỏng của miền Trung như từ từ hạ xuống thấp và gió thơm nồng mùi hương thổi lống lộng … để bông Cúc Vàng mãi mãi trong ấm cúng, mịn màng. Một thời hạn sau, không nhớ rõ bao lâu, có rất nhiều bướm, rất nhiều chim bay là là trên mặt sông. Chúng say sưa ngắm nhìn một bông Cúc Vàng rực rỡ, in hình rõ mồn một trong lòng sông trong xanh. Và cạnh đấy trên bờ sông ở bãi đất bồi, một xóm cây Cúc xanh tốt đang hát rì rào. HỒ NƯỚC VÀ ĐÁM MÂY Gia đình Cóc Tía ở trong cái hang đá bên một hồ nước. Sinh nhật Cóc con, cả nhà Cóc kéo nhau ra cửa hang hóng gió. Cóc con lững thững đi qua một dải đất trống nứt nẻ xuống sát mép nước. Lúc quay trở lên nó hỏi : – Sao bữa nay hồ nước nhỏ teo lại vậy, bố ? Cóc Tía ngước nhìn lên vòm trời cao ngút nói : – Hồ nước nhỏ để đám mây trên trời kia to lên. Cóc con mở to đôi mắt lồi : nó không hiểu lời bố. Cóc Tía nhìn con trai, rồi kể, giọng lúc lên cao, lúc xuống thấp ; thậm chí còn, có lúc rít lên ken két : Lâu lắm rồi, không nhớ là vào thời hạn nào nữa. Một lần Mây dưng dưng sà xuống sát mặt Hồ nước. Hồ nước cuộn sóng hổn hển nói với Mây : “ Có ánh nắng tôi lóng lánh đẹp hẳn lên. Sao anh che nắng của tôi ”. Mây tung tà áo phất phơ, giọng lùng nhùng : “ Bụng dạ anh cạn đĩa đèn dầu thật. Không có tôi thì làm thế nào có anh ”. Hồ Nước ồn ào : “ Anh là cái thá gì ? Tôi đếch cần anh ”. Mây tức giận, xịu mặt. Nó bay về một nơi xa lắm, đâu chỗ đất trời giao nhau. Bấy giờ là mùa hè. Suốt ngày nắng chang chang, gió Lào thổi cồn cột. Cái nóng luồn lách kêu tanh tách khắp nơi. Hồ nước bốc hơi như sương khói. Nó nhỏ bé đi trông thấy. Ngày lại ngày dằng dặc trôi. Cữ quá chiều mới có vài làn gió nồm lượt thượt từ biển vào, nhẹ như phẩy lông gà. Hồ nước oằn mình gọi Mây : “ Anh hãy mau về với tôi ”. Bầu trời vẫn cao ráo, xanh vòi vọi, còn khoảng trống thì trắng dã và im phăng phắc. Hồ Nước thều thào : “ Về với tôi, anh Mây ! Không có anh, tôi chết mất ”. Hôm sau, rồi hôm sau nữa. Một chiều, từ sau những dãy núi xanh mờ đằng Tây đám mây Open, rồi lườn lượt kéo về. Bầu trời đen kịt. Rồi mây tưới nước xuống, tầm tã một ngày, một đêm. Hồ nước tí tách, lao xao, lớn dần lên bát ngát. Từ trên cao, mây co lại, cười ràn rạt : “ Biết chưa ! ” Hồ Nước lặng người. Nó biết ơn Mây, nhưng lại ngầm giận cái điệu cười ràn rạc đầy khinh bạc của Mây. Suốt mùa đông, nó sống lặng lẽ đến nỗi lời nói cũng trở nên thầm thì. Sang mùa xuân, khung trời cao ngút, trong xanh và giữa đỉnh trời, mây nhỏ dần chỉ còn như cái lá cọ đơn độc, mờ nhòa vào sắc xanh. Một hôm, mây hấp tấp vội vàng sà xuống sát Hồ Nước. Nó nói : “ Anh hãy giúp tôi ”. Hồ nước lao xao tảng lờ. Mây nói tiếp : “ Không có anh, tôi không sống nổi đâu ”. Lúc ấy, mặt trời đỏ lừ hiện lên phía biển. Hồ nước oằn mình còn Mây lớn dần lên. Cóc Tía ngừng kể, nó nhìn ra bốn phía chung quanh. ở đời không có ai hoàn toàn có thể sống một mình được. – Nói xong, Cóc Tía tắc lưỡi. Cóc con gật gật cái đầu nhỏ xù xì. CHÚ GÀ BẠCH Trong khu nhà ở của họ nhà gà, có một căn phòng ngoảnh mặt ra bãi đất màu nâu phẳng phiu. Trên bãi đất ấy có một cây chanh đang mùa ra hoa. Hoa chanh xòe những cái cánh trắng muốt, thơm đến nồng nàn. Xa hơn tí nữa, bên kia cái rãnh nước ngoằn ngoèo men theo bờ cỏ mơn mởn là hồ nước rất xanh. Ba mẹ con Gà Đen sống trong căn phòng ấy đã trọn một mùa đông. Người mẹ đẫy đà. Bộ lông đen mượt như nhung. Đôi mắt màu nâu ấm cúng. Giọng nói nhẹ nhàng cứ như xoa vuốt, mơn man. Hai đứa con từ hình dáng đến tính tình đều khác nhau. Chị Gà Nâu thấp tè, chắc khỏe như một củ khoai, tính tình điềm đạm, suốt ngày chịu khó làm ăn. Chú Gà Bạch mảnh khảnh, đôi mắt tròn nhỏ hơi hiêng hiếng. Chú thường thơ thẩn dưới gốc chanh nhặt từng cánh hoa so đo với màu áo của mình. Rồi chú gác đầu lên cánh thom thóp cái mũi tí xíu như một lỗ kim thở không tiếc không khí vô tận thoang thoảng hương chanh. Chú chưa hề bước chân đến bờ cỏ xanh ven hồ. Đến tầm mắt chú cũng chỉ dừng lại ở cái rãnh nước ngoằn ngoèo. “ Biết nhiều mệt xác ” – Chú thường triết lý vụn vậy mỗi khi chị Nâu khuyên chú tập bay tập nhảy và hướng đến thức ăn. Nói đúng ra ngày có hai lần chú rê chân khỏi bãi đất nâu ấy. ấy là những lúc mẹ chú gọi chú đi ăn. Ăn xong chú lại về với gốc chanh, với bãi đất màu nâu cỏn con của chú. Thường mỗi buổi sáng có một chú Vịt Bầu từ gốc chanh ra hồ hoặc từ hồ về dãy nhà phía sau. Chú Bạch ta thường ngọ nguậy cái đầu xinh xắn chế nhạo cái bước đi lạch bạch, thân hình múp míp của Vịt Bầu. Vịt Bầu vẫn tỉnh bơ. Lạ thật ! Một hôm chú Bạch đến rãnh nước, nghếch cổ nhìn Vịt Bầu đang lặn ngụp cần mẫn giữa những cụm bèo tây xanh um. Vờ khục khặc ho, chú Bạch hỏi : – Cậu Bầu ơi, cậu khi nào cũng lấm lấp vậy à ? Vịt Bầu ngửng đầu, nước từ cổ nhỏ tong tong, thản nhiên : – Làm việc lấm láp thì có gì là lạ. Chú Bạch do dự : – Thế mẹ cậu ? – Mẹ tớ có việc của mẹ. Chú Bạch tỏ vẻ thông cảm : – Có một người mẹ không chăm sóc nuôi nấng con cháu như cậu cũng buồn nhỉ. Tớ hơn hẳn cậu ở điểm này. Mẹ tớ lo cho tớ đến cả những con kiến lửa nhỏ tí xíu sẵn sàng chuẩn bị cắn tớ. Chẳng là trong nhà tớ dưới đất ấy có một làng kiến, đông kinh điển. Vịt Bầu khịt khịt mũi ầm ĩ rồi hỏi : – Thế lỡ mẹ cậu ốm thì sao ? Chú Bạch cười : – Cậu ngây thơ lắm lắm. ở đời đúng là có những biến cố. Nhưng ít lắm. Với lại tớ có đến hai chỗ dựa. Ngoài mẹ tớ ra còn có chị Nâu. Cậu biết không, mẹ tớ là con đầu của một mái ấm gia đình giỏi võ. Ông ngoại tớ, hồi tớ chưa sinh, đã từng được loài người đưa lên khắp những trường đấu võ xứ đông, xứ đoài. Cậu chưa biết trường đấu võ nó to làm thế nào chứ gì ? Buồn cho cậu thật ! Tớ nghe mẹ tớ bảo là nó to như … như cái trường đấu võ ấy … Còn chị Nâu của tớ khỏe mạnh khiếp và có tài hướng đến thức ăn … Kìa ! Sao cậu cứ cười quàng quạc lên như vậy. Vịt Bầu thôi cười, nghiêm trang : – Thế mẹ cậu không bảo cậu tập luyện à ? – Cũng có … – Bạch cúi đầu, đoạn nói tiếp : – Chao ơi ! Mẹ tớ, mẹ tớ là một bà mẹ độc nhất vô nhị trên toàn cầu này. Người rộng lượng, hiền hậu. Tớ hoàn toàn có thể nằm ngửa từ năm này qua năm khác hứng lòng tốt trời biển của Người. – Chà ! Chà ! Chà ! – Vịt Bầu lơ đãng. Chú Bạch đã lại nói tiếp : – Điều cậu lo cho tớ là thừa. Mẹ tớ và chị Nâu hoàn toàn có thể ốm, chỉ là hoàn toàn có thể thôi, thì cũng không ốm cùng một lúc. Vịt Bầu nheo nheo con mắt : – Sướng quá ! Sướng quá ! Chú Bạch trầm ngâm, mắt mơ màng : – Cũng vừa vừa chứ chưa sướng quá đâu. Chà ! Giá cây chanh kia mọc gần nhà tớ, quệt những chùm hoa kia vào hành lang cửa số, để tớ khỏi phải leo lên tụt xuống cái bậc cửa làm bằng một viên gạch cao ngất ngưởng, mà chỉ nằm trong nhà hít thở hương thơm, ngắm nhìn màu trắng. Và giá bãi đất mẹ tớ thường bắt giun bắt dế dịch sát vào đây tí nữa, để tớ khỏi mỏi chân đi lại … Vịt Bầu ngoắt đuôi, tức bực : – Giá như dạ dày của cậu nằm trong bụng mẹ cậu nốt nhỉ. Chú Bạch nhún vai : – ở đời có ba mươi sáu cái “ nốt ” nhưng không có cái “ nốt ” nào như cậu nói. Như để tỏ ra rằng mình không thèm chuyện trò với Gà Bạch, Vịt Bầu nhảy lên khỏi rãnh nước, ào xuống hồ. Nước bắn lên chung quanh người chú từng tia lấp lánh lung linh. Chú Bạch khước từ nhìn theo Vịt Bầu, đoạn lê chân về dưới gốc chanh. Chú nằm mọp xuống, thở dài và ngủ. Rồi một đêm … Chừng khuya rồi thì phải. Chú Vịt Bầu thôi không hò hát quàng quạc nữa. Gian nhà kề cạnh, mẹ con Gà Vàng đã thôi chuyện trò rinh rích. Lũ kiến lửa đã về ngủ, thôi tiếng chân lào xào. Mẹ Gà Đen áp má lên sống lưng chú Bạch, giọng buồn buồn : – Bây giờ những con đã đủ lông đủ cánh, phải sống tự lập, kiếm ăn và bảo vệ lấy mình. Mẹ đã nán ở lại với những con lâu lắm rồi. Mai mẹ đi đến nơi khác, cách đây không xa nhưng không hề sống với những con được nữa. Mẹ lo cho Bạch lắm. Con đã quen sống ỷ lại. Rồi con sẽ khó khăn vất vả ! Bạch ơi ! Cuộc đời nó nghiêm khắc lắm con ạ. Con phải rèn luyện sức khỏe thể chất. Có sức khỏe thể chất mới kiếm ăn và bảo vệ được thân mình. Chú Bạch nghe rân rấn hai mi mắt. Lần tiên phong chú cảm thấy buồn. Chú hấp tấp vội vàng hỏi : – Chị Nâu ở lại với con chứ mẹ ? – Phải, Chị Nâu ở lại … – Giọng Gà Đen run lên như khóc. Chú Bạch tắc lưỡi, tự an ủi : “ Đã có chị Nâu, chị Nâu khỏe mạnh ”. … Sáng hôm sau chú Bạch thức dậy không thấy mẹ đâu nữa. Chị Nâu cũng đi làm tự khi nào. Trên bãi đất nâu bọn Gà Vàng đang tập thể dục nôn nả, ầm ĩ. Chú Bạch gác đầu lên hành lang cửa số nhìn ả chuồn chuồn kim xanh lơ đang bay lượn nhởn nhơ mà mơ ước viễn vông. Lúc trên bãi đất màu nâu vắng hẳn, chú lựng khựng đến bên gốc chanh. Hoa chanh rụng nhiều quá, trải đệm lên mặt đất. Gió nhẹ và thơm cái mùi gì là lạ. ả Chim Chích lúng liếng hai con mắt như hạt đậu xanh cười rinh rích … Gần trưa màu hoa không còn trắng tinh nữa và mùi hương thì nghe nhạt thếch. Chú Bạch thấy cái gì sùng sục trong bụng. Và đói. Đói cồn cào. Sao thị Nâu vẫn chưa về gọi chú đi ăn ? Chao ôi, chờ một miếng ăn trong khi đói bụng thực là cay nghiệt. Nằm không yên, đứng không yên, cái gì trước mắt cũng thấy vàng ệch. Chú rê chân đi về phía chị Nâu. Chị Nâu đang hì hục đào thức ăn dưới gốc chuối. Người chị lấm láp chẳng khác chi Vịt Bầu hôm trước. Lâu lâu lắm chị mới chộp được một con dế mèn xám ngoét. Chị Nâu đưa cho chú Bạch. ả dế mèn run bần bật dưới những ngón chân thon thon cũng đang run lên của chú. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, lúc chú Bạch sẵn sàng chuẩn bị cúi xuống, ả dế mèn bất thần chui tọt vào vườn chè chi chít. – Để sổng rồi. – Chị Nâu tức bực, tiếc rẻ. Chị đỡ chú Bạch dậy. mắt chị rân rấn nước. Giọng chị nghiêm khắc lạ lùng : – Đến con dế cũng không giữ nổi, khổ thân em tôi. Em phải rèn luyện, Bạch ạ. Chú Bạch giũ bụi đất trên người, bụng bảo dạ : “ Có người chị nào mà chẳng dạy em út những lời như vậy ”. Sắp chiều, tình hình chẳng có gì sáng sủa hơn. Chị Nâu vẫn cần mẫn hướng đến thức ăn. Rác rưởi tanh bành ; cỏ giang, cỏ kim bật rễ nằm xoài dưới chân chị. Nhưng mặt đất vẫn phơi ra trắng phếch, chẳng thấy có một con giun, con dế nào cựa quậy. Người chị lầm bụi, mồng đỏ tía. Chị mệt, thở dốc từng hơi. Chú Bạch nằm trong bụi ngải cứu, thu hai chân dưới bụng nghển cổ nhìn đau đáu vào chân chị Nâu. Giống như có một con sâu chiếu cục tính cựa quậy trong bụng chú. Mấy lần chú định đến bên gốc chuối chỗ chị Nâu, nhưng chú không nhúc nhích, không hề nhúch nhích. Người chú bãi hoãi lắm rồi. Mặt đất thao tác suốt ngày chắc mệt, tiếng ồn ào ngớt dần và đang chuyển từ màu sáng sang màu xám. Lá ngải cứu trên đầu chú ngã nghiêng, rì rào vẻ lười nhác. Mặt hồ cạnh rãnh nước cáu kỉnh tung nước lên bãi cỏ. Chị Gió ồn ào đẩy mây đen từ bên kia dãy núi cao ngất xanh mờ về kín trời. Lát sau, khắp chốn mù mịt bụi đất. Những cái lá yếu bị gió rứt khỏi cành bay lộn nhào trong không khí. Chị Nâu gọi thất thanh : – Bạch ! Bạch ! Về ! Về ! Co duỗi chân hai ba lần, Bạch mới đứng dậy được. Chú chạy theo chị Nâu. Gió đuổi theo chú. Sao cái chân chú cứ lẻo khoẻo liêu xiêu thế này ? Bọn Gà Vàng như những cái kén liên tục vượt qua chú, miệng kêu “ Khiếp ! Khiếp ”. Chị Nâu đứng lại, giục : – Nhanh ! Nhanh ! Chú Bạch đã chạy được một đoạn khá xa, ít ra thì chú cũng cảm thấy thế. Chân chú mỏi nhừ. Mặt đất lồi lõm chung chao. “ Thôi màng vào chạy nữa. Chị Nâu nhất định trở lại đón mình. Chị mình khi nào cũng lo ngại cho mình ”. Nghĩ vậy, chú Bạch rúc vào một bụi kinh giới. Mưa như ném sỏi vào chậu thau nhôm. Gió réo ù ù như con bò thở bằng mũi. Chú Bạch không ngóc nổi đầu lên được. Qua bãi đất trống vào cồn rơm kia là hết mưa, hết gió. Chú vẫn biết thế, nhưng chú không đủ gan vượt qua khoảng chừng đường ngắn ngủi ấy. Miệng chú không thôi lẩm bẩm : “ Chị Nâu trở lại. Chị Nâu sẽ trở lại ”. Chị Nâu trở lại thật. Nhưng vì chú Bạch nép quá sâu vào bụi kinh giới nên chị không trông thấy. Chị gọi nhưng tiếng gọi của chị bị mưa nuốt chửng. Chị tin rằng Bạch đã về đến nhà. Chị quay trở về. Nhà vắng. Chị khóc tu lên. Rồi chị lại lao mình vào mưa gió đi tìm em. Chị đi qua sân trơn nhẫy, đầy bong bóng nước, đi qua bụi hẹ nằm mọp mình sát đất, đi qua vườn cà, cành lá vươn ra vẻ vững chãi. Đến rãnh nước, đùng một cái có một cơn gió quật mạnh vào chị. Chị rơi. Chơi vơi. Chơi vơi. Vịt Bầu đang tắm gần đấy, thấy vậy kêu lên thảng thốt : – Chìm mất ! Chìm mất ! Rồi nhanh gọn, Vịt Bầu lao lại, cõng chị Nâu leo lên khỏi rãnh nước. Đưa Gà Nâu về nhà xong. Vịt Bầu vội bươn bã đi tìm chú Bạch. – Bạch ! Bạch ! – Vịt Bầu vừa đi vừa gọi. Tiếng nó ồ ồ, mạnh hơn tiếng mưa rơi, vang hơn tiếng gió thổi. Chú Bạch nghe tiếng gọi tên mình, vấn đáp, giọng yếu ớt : – ở đây ! Tôi ở đây ! … Đêm ấy, chị Nâu rên hừ hừ. Chú Bạch thương chị lắm. Chú muốn nói một câu gì đó, nhưng lời nói đọng cả lại trong cổ. Mắt chú cay xè. Chú khóc. Đây là lần tiên phong chú khóc. HAI CHÚ CHUỒN CHUỒN Chuồn chuồn Ngô và chuồn chuồn Kim sống với nhau trên bụi trúc bên một hồ Sen. Tháng sáu, Sen nở hoa. Chú Ngô và chú Kim rủ nhau xuống hồ chơi. Sen đón hai chú chuồn chuồn vồn vã, nồng nhiệt : lá Sen xanh mịn tròn xoe nghiêng nghiêng thật duyên dáng, hoa Sen đỏ hồng phập phồng tỏa hương thơm ngát. Hoa Sen run run sợi nhụy vàng nói với chuồn chuồn Ngô : – Bạn có màu vàng sang chảnh quá ! Đôi mắt màu nâu thăm thẳm đẹp quá ! Chú Ngô mừng rơn. Đôi cánh lụa mỏng tang của chú run rẩy như một làn khói. “ Hoa Sen ngắm mình, tâm sự với mình … ” – Chú Ngô nghĩ. Và bất chợt, chú quay nhìn chú Kim đang đậu trên cái cuống Sen gầy rạc. Lần tiên phong kể từ khi họ sống gần nhau, đâu như trọn hai mùa xuân hạ, chú Ngô phát hiện ra bạn mình thật xấu xí : nhỏ bé, gầy guộc, mắt thì xanh, da thì đen. Đã thế lại bay lừ đừ. Chao ôi ! Xấu chàng hổ ai ? Bỏ nó thì không nỡ lòng nào. Có điều, làm thế nào để Kim không còn xấu xí, nghĩa là nó phải giống ta. Đêm ấy, khi đã nằm trên cành trúc, chú Ngô nói với chú Kim : – Này, chú em ! Ta chán chú lắm. Chú Kim giật mình, kinh ngạc : – Anh bảo sao ? – Chú xấu quá. Tôi xấu hổ với những bông hoa Sen xinh đẹp. Chú Kim bùi ngùi : – Cha mẹ sinh ra em thế, biết làm thế nào. Chú Ngô xòe cánh vuốt đầu chú Kim, nói : – Phải biến hóa. – Thay đổi ư ? – Chú Kim trố mắt. Chú Ngô đận đà : – ở đời, mọi thứ đều hoàn toàn có thể thay đổi. Cái cách vỗ cánh, cách đáp cánh, cách bay lượn, chú lấy ta làm mẫu mà theo không khó. Cái khó là da của chú phải nâu như da ta, mắt chú phải đỏ như mắt ta. Chú Kim run rẩy cái đuôi tí xíu trên lá trúc nghểnh đầu : – Thật vậy ư ? Em sẽ giống anh được ư ? – Được. Ta đã có cách. Sáng hôm sau, chú Ngô bay vào vườn cam. Chú khảy một mảnh nhựa màu nâu trên thân cam già sần sùi. Đặt mảnh nhựa lên một cái lá trúc, chú Ngô chờ nắng đến. Khi nắng đốt mảnh nhựa thành một thứ nước sền sệt, chú Ngô bảo chú Kim nằm duỗi cánh xuống mặt đất, rồi tưới thứ nước sền sệt ấy lên khắp người chú Kim. Chú Kim thấy mình như đang bay qua ngọn lửa. Cánh nặng trĩu, bả vai đau nhói, cổ tê cứng. Chú quằn mình chịu đựng, lòng bồn chồn, thắc thỏm. Giống chú Ngô, chú sẽ ngửng đầu cùng chú Ngô bay xuống hồ Sen, đậu trên cánh hoa hồng mịn, áp nguồn vào những sợi nhụy vàng … Bông Sen sẽ nói với chú những lời ngọt ngào bằng thứ giọng trong ngần … Chú Ngô reo lên : – Xong rồi ! Tốt lắm ! Nào, bay đi ! Còn nặng trĩu nơi cánh, đau nơi bả vai, tê nơi cổ, nhưng chú Kim vẫn cựa mình, đập cánh. Nhưng mọi thứ trên người chú đã đông cứng lại, như một mảnh vỏ cây, như một lát đá và dính chặt vào lá trúc. Trời ơi ! Ta sẽ không khi nào bay được nữa ? – Chú tá hỏa kêu lên, giọng đớn đau. Chú Ngô loay hoay quanh chú Kim ; nó chẳng biết làm gì để cứu bạn. Chú Kim đưa mắt nhìn chú Ngô, cái nhìn trách móc của một đôi mắt nhỏ nhòa nước. – Sao anh lại nghĩ ra cái chuyện tôi phải giống anh, hả ? Anh nói đi ! – Chú Kim hổn hển nói. Chưa khi nào chú Ngô gặp cái nhìn oán giận, nghe cái giọng tức tối và buồn não ruột như thế của chú Kim. Chú cúi đầu, cắn chặt hàm răng vào cành trúc. CHIM CHÈO BẺO VÀ CÂY RƠM Một sáng mùa thu, có chú Chèo Bẻo từ phía biển bay vào đất liền. Sau mấy ngày mưa, sông và đồng làng ngập lũ. Mặt nước xum xê những cụm hoa khủng hoảng bong bóng, Bèo Tây và lá cây vàng suộm. Chú Chèo Bẻo vút lên ngọn cây, sà xuống mái nhà, lượn trên những lườn sóng bạc phếch. Chuồn Chuồn Ngô sợ hãi nép sau những cái lá tre khí ẩm. Gần trưa, mỏi mệt Chèo Bẻo bay vào làng, nghỉ trên ngọn cây dâu. Chung quanh chú trùng điệp những cây là cây. Cây mít như một tảng đá khổng lồ. Cây si như ông già râu nâu. Cây cau cao ráo hệt cái cột buồm ngày trời lặng … và vô vàn những bông hoa xanh, đỏ, tím, vàng … ngời ngợi giữa bãi cỏ. Hương hoa như tơ nhện vương khắp nơi, chỗ nào cũng thơm ngan ngát. Chèo Bẻo bỗng nhớ quê nhà. ở đó, một hòn hòn đảo giữa biển, nhiều đá, ít cây. Bốn phía chung quanh là nước, nước xanh vô cùng, vô tận. Bất giác, Chèo Bẻo cất tiếng hát : – Rẹc ! Chiu ! Rẹc … Ngay đó, chú im bặt. Một cảnh tượng kỳ lạ hiện lên trước mắt chú : cái gì đó giống mô đất nhưng không phải mô đất, giống tảng đá nhưng không phải tảng đá. Bất động và body toàn thân vàng rực. Trên cái thân vàng rực ấy, ngộ nghĩnh và ngang tàng một cái mũ nồi đất. – Kỳ lạ ! – Chèo Bẻo thốt lên. Cây dâu nghiêng ngả cười, rồi nói : – Có gì mà lạ. Đấy chỉ là cây Rơm. – Cây Rơm ? – Chèo Bẻo kinh ngạc. Nó như không tin lời cây Dâu, bay về phía cây Rơm, cất tiếng hỏi : – Ngươi là cây Rơm ? – Phải ! Chính ta ! – Cây Rơm đáp. Rồi tiếp, giọng như gió thổi. – Ta không giống bất kể một cái cây nào trên mặt đất. Từ thuở khai thiên lập địa đến tận giờ ta không giống ai. Hình dáng ta tượng trưng cho sức mạnh. Màu da ta là hình tượng của vẻ đẹp và sự giàu sang. Cái mũ ta đội, ngươi biết không nó là cả một thiên lịch sử dân tộc dài bằng lịch sử dân tộc toàn cầu, hoặc hơn. Chèo Bẻo mở to mắt. Cây Rơm lại hào hứng : – Thời xa lắc, xa lơ ta không còn nhớ là thời nào nữa, con người đào sâu vào lòng đất chọn lấy thứ đất dẻo nhất, mịn màng nhất và tất yếu là tốt nhất. Họ nhào, họ nặn, họ xoay đất thành cái nồi. Nồi ta được tắm lửa đỏ mười ngày mười một đêm. Khi xương cốt trưởng thành, da dẻ có màu nhựa thông, nồi ta khởi đầu chuyến du lịch có 1 không 2 : ra chợ Đông, đến chợ Đoài, lên chợ Thượng. Cuối cùng nồi ta về nhà bếp một quốc vương giàu sang và đầy thế lực. Khỏi nói, nồi ta được chiều chuộng, thượng hưởng đủ những thứ cao lương mỹ vị … cho đến cái ngày sầm uất nọ. Cái ngày oan nghiệt. Con mèo Mun bụng chứa một bồ đố kỵ đập vỡ trán nồi. Nồi trở thành cái mũ của ta từ ấy. Tất nhiên, thực tiễn không đơn thuần như ta vừa kể. Nó là cả một sự so đo, lựa chọn của ông chủ – vị quốc vương nọ. Ông thấy vẻ sang trọng và quý phái của ta mới đội nồi đất lên đầu ta. Ông ấy bảo, cái mũ nồi ấy xứng danh che đầu cho một thân thể được tạo nên bởi bông lúa của mười một cánh đồng. Không nén nổi, Chèo Bẻo kêu lên : – Thật vậy ư ? Cây Rơm không nhúc nhích. – Hãy tin ta. – Cây Rơm nói. – Ta ghét nhất thói nói điêu … – Ta nói đến đâu rồi nhỉ ?. à, đồng lúa … Vậy đấy. Mọi thứ trên người ta đều kỳ diệu. Sử sách phải ghen ta. Văn chương, hội họa, âm nhạc làm thế nào đa dạng chủng loại bằng được cuộc sống ta. – Càng nói, cây Rơm càng phả hơi mù mịt, thứ hơi có mùi ngai ngái. – Mặt trời là kẻ đi nhiều nơi, từ đông sang tây cũng thân quý ta. Ông ta liên tục rót vàng xuống tắm gội cho ta. Gió là kẻ long dong lãng tử, từng làm tan tành làng mạc, đổ sập thành phố cũng yêu quý ta. Suốt ngày nó ca hát quanh ta. Hãy lắng nghe ! Đấy ! Lao xao, rì rào. Đúng không nào ? Chèo Bẻo gật đầu. – Ta không khi nào nghiêng ngã như bọn cây dâu, cây khế, cũng không rạc mình yếu ớt như cây liễu, cây lau. Ta không bị bọn người chém làm củi, không bị lũ trẻ nít vít lá, bẻ cành. Ta là trường sinh, bất tử. – Trường sinh bất tử. – Chèo Bẻo nhắc lại lời cây Rơm với sự thán phục có được trong người. Sau mùa thu lũ lụt ấy. Chèo Bẻo trở lại hòn hòn đảo trơ trọi với những cây muồng xơ xác và đá xám chồng chất giữa biển cả bát ngát, huyền bí. Trong lòng chú lao xao lời cây Rơm vào cái buổi chiều lũ lụt trong đất liền. Một thời hạn sau, khi biển cả ầm ào cuộn sóng. Chèo Bẻo lại cùng bè bạn bay vào đất liền. Chú tìm đến cây Rơm. Dáo dác nhìn chỉ thấy mỗi cái Cọc Tre. Cái Cọc Tre đội trên đầu chiếc mũ nồi đất. Chèo Bẻo hỏi, giọng không khỏi chút thảng thốt : – Cọc Tre ơi, cây Rơm “ Trường sinh bất tử ” đâu rồi ? Cọc Tre đáp : – Ta đứng chôn chân ở đây qua hai mùa nóng, lạnh còn anh Rơm thì đã đi rồi, đi hẳn rồi. – Đi đâu ? – Chèo Bẻo hỏi. – Anh lên hỏi anh Nồi Đất ấy. Anh ấy ở cao hơn ta, nhìn thấy nhiều chuyện hơn ta. – Nói xong, Cọc Tre lắc lắc người một cách khó hiểu. Chèo Bẻo dừng chân đứng cách Nồi Đất một sải cánh. – Cây Rơm đi đâu ? – Chú hỏi. Sau một hồi thổi sáo u … u …, Nồi Đất nói : – Nhìn đi ! Nhìn vào nhà bếp nhà ông chủ kia kìa. Một cái nhà bếp lợp cỏ gianh thấp tè, cánh cửa đan bằng phên nứa lan rộng ra. Qua khuôn cửa, thấy một bà già mặc áo nâu đất, tóc trắng như cước ngồi bên nhà bếp lửa. Bà luôn tay dùng thanh sắt nhỏ và dài đẩy những gọng rơm vàng vào nhà bếp. Ngọn lửa bốc cao, kêu phật phật. Mùi khói lẫn mùi cơm tỏa ra thơm phức, đầm ấm và yên bình. Chèo Bẻo như vừa thấy ra cái gì đó. Chú tiêng tiếc cho anh cây Rơm. Anh ta dài dòng những lời cao sang đâu đâu còn cái điều rõ lông cánh là anh ta làm chín được nồi cơm nuôi con người thì lại không biết đến. Chú nhìn Cọc Tre và Nồi Đất đang mờ nhòa trong làn mưa bạc, bỗng buồn mênh mang. LÁ BÀNG VÀNG Trên cây bàng đứng bên bờ sông Duềnh có một cái lá vàng. Cữ đầu đông, dòng sông êm đềm trôi. Sáng ấy, giữa dòng sông những cái lá bần tím, lá tre trắng, lá tròi đỏ và cả những gọng rơm vàng cứ dập dềnh đi qua trước mắt lá Bàng Vàng. Bọn họ đi đâu ? – Lá Bàng Vàng do dự. Nó hỏi sông Duềnh : – Sông ơi ! Sông đưa bọn lá và gọng rơm về đâu ? Dòng sông thầm thì : – Ta đưa họ ra biển. Lá Bàng Vàng nghiêng mình hỏi : – Biển là cái gì vậy ? Dòng sông cười lao xao :

– Biển hao hao giống ta nhưng lại khác ta là biển bao la, lớn hơn ta ức triệu lần. Và nữa, biển xanh hơn ta, sâu thẳm hơn ta, mạnh mẽ hơn ta và giàu có hơn ta. Ta không kể hết về biển được đâu.

Lá Bàng Vàng bỗng khát khao được nhìn thấy biển. Chỉ cần ta nhảy xuống sông, sông sẽ đưa ta ra biển. – Nó nghĩ vậy. Rồi nó chao mình sang phải, sang trái, nhưng mãi vẫn không dứt được khỏi cành cây. Phải hàng giờ vẫy vùng lá Bàng Vàng mới thoát khỏi sự níu giữ. Nó liệng giữa khoảng chừng không một lúc rồi nhẹ nhàng xoài mình lên mặt sông. Sông Duềnh cuộn mình đón lá Bàng Vàng. Từ ấy, lá Bàng Vàng tênh tênh trôi. Nó qua một xóm làng sum sê cây cối, hăng nồng mùi khói nhà bếp, qua một cánh đồng lúa chín ríu rít tiếng chim Chiền Chiện, qua một dãy núi đá nâu, đá trắng chồng chất. Rồi trước mắt lá Bàng Vàng mở ra một khoảng chừng xanh vô cùng, vô tận. Dòng sông cuộn mình, nói : – Trước mặt là biển. Lá Bàng Vàng reo lên : – Ha ! Ta sắp ra với biển. Sông nói : – Phải rồi. Bốn phía chung quanh lá Bàng Vàng không còn cây cối, không còn núi đá cũng không nghe tiếng chim hót, chỉ bát ngát nước. Nó lo ngại nói với sông : – Sông ơi ! Sông mà đi nữa, sông sẽ không còn là sông nữa đâu. – Sông cởi mở : – Ta không đi làm gì có biển … Bất ngờ những con sóng nối nhau đổ ập về phía lá Bàng Vàng. Đất trời ầm ầm, tối sầm lại. Lá Bàng Vàng run bần bật. Sông oặn mình, nói : – Đừng sợ hãi. Sợ hãi, sẽ không ra được với biển đâu ! Lá Bàng Vàng leo lên một ngọn sóng dưới xanh, trên trắng. Màu trắng ở ngay trên đầu nó. Màu trắng tung tóe trên người nó. Nó sợ hãi, quay tròn. Trong cái khoảnh khắc ấy, một con sóng khác đẩy bật nó vào sông. Sông nâng lá Bàng Vàng lên cao, cao mãi rồi đẩy bật nó vào bãi cát. Bấy giờ đang giữa trưa, mặt trời đứng giữa đỉnh trời. Bãi cát trắng phau, nóng bỏng. Lá Bàng Vàng cong mình, da thịt nổ tanh tách. – Nóng quá ! – Nó kêu, tiếng kêu biến mất vào khoảng chừng không loang loáng. Từ ấy, lá Bàng Vàng chỉ thấy cát và cát và không khi nào nó ra được biển nữa. CHIM CHÍCH VÀ BÔNG HƯỚNG DƯƠNG Mùa xuân mở màn với những cơn mưa màu trắng dịu hiền. Vạn vật thức tỉnh sau giấc ngủ mùa đông dài dằng dặc. Cây cối xanh lè, rì rào. Và hoa, hoa cam trắng tinh, hoa thược dược tím, hoa hướng dương vàng rực … Hương hoa ngan ngát lẫn mùi ngải cứu, mùi hương như có ai rắc bột thơm vào khoảng trống. Giữa thảm hoa sắc tố sặc sỡ ấy, tíu tít, bận rộn những chú ong đất lông lá, những chị vò vẽ đường bệ, những con bướm hôi sọc trắng, sọc vàng. Cảnh vật thực vui tươi, xinh đẹp. Bỗng một buổi sáng khi cây xoan rắc hoa tím ngát xuống mặt đất, một đoàn rệp cây Open bên bờ suối, cạnh cây Hướng Dương có một bông hoa vàng rực. Chúng bò lăng xăng, quều quào những cái chân đen đúa, hươ những cái vòi dài và nhọn. Chúng bám vào cành lá, cuống hoa, chọc vòi vào lớp vỏ cây thơm phức, hút nhựa một cách tham lam và tàn tệ. Cây cối vặn mình, thì thào những tiếng rên đau đớn. Nhiều ngày trôi qua, cả một mảnh vườn rộng bên bờ suối tơi tả trơ trụi như vừa mới qua cơn bão. Lá cây mềm nhũn lợp dày trên mặt đất. Cành cây gầy guộc chọc tua tủa lên nền trời đỏ ối như một đám cháy. Gió lào thào lê mình trên mặt đất. Gió ru đất, ru cây cối bằng những lời ru riêng của nó, đến nỗi về đêm cứ nghe tiếng nước mắt rơi tí tách đó đây. Lũ bướm bám đuôi nhau, lũ vò vẽ mạnh ai nấy được bay vút lên cao lưng chừng trời tìm về một vùng cây cối xanh tươi tỏa nắng rực rỡ màu hoa khác. Chúng ném xuống quanh bông Hướng Dương những tiếng vi … vu … Bóng chúng nhỏ dần, thành những dấu chấm biết đi, rồi nhòe vào nền trời xanh thẳm. Bông Hướng Dương một mình với tĩnh mịch với ánh ban ngày bùng cháy rực rỡ, với ngọn gió đêm rì rào như trăn trở điều gì dưới trời đêm trầm mặc đính đầy những ngôi sao 5 cánh lộng lẫy. Dẫu đất trời vẫn chu đáo sưởi ấm bông Hướng Dương bằng nắng, tắm mát bông Hướng Dương bằng sương, nó vẫn cảm thấy đơn độc. Nó khóc. Tiếng khóc của nó biến thành mùi hương lẫn trong gió trời bay cùng toàn cầu … Một buổi sáng ở vùng rừng kia có một anh Chim Chích nhận thấy mùi hương ấy. Với ngôn từ riêng của hoa lá, mùi hương kể cho Chim Chích nghe số phận những loài cây trong mảnh vườn bên bờ suối nọ. Chim chích vội diệt nốt con bọ hung ăn đậu sau cuối rồi ra đi. Nó hạ cánh xuống bông Hướng Dương vàng rực trên mảnh đất trơ trụi. Bông hoa xòe những cánh mỏng dính đỡ tấm thân Chim Chích bám đầy bụi đường. Ở với bông Hướng Dương một lát rồi Chim Chích bay vút lên cao. Nó thở gió trời trong lành, tắm nắng vàng ấm ấp. Rồi rất nhanh, nó lao xuống mặt đất. Không gian vù vù tiếng gió. Nắng lóe lên. Mây cuồn cuộn. Cây cối nghiêng đầu nín thở. Chim Chích treo người trên cành lá, giáng cái mỏ chắc như một cái kìm tí xíu lên thân rệp cây. Cứ thế, Chim Chích nhảy từ cành này sang cành khác, soi ánh mắt tinh tường của mình vào khắp kẽ lá, khuỷu cành. Cái mỏ của Chim Chích cứ thế giáng liên tục xuống con rệp cây này đến con rệp cây khác. Không biết bao nhiêu giờ đã trôi qua, bao nhiêu con rệp cây đã chết. Khi con rệp cây ở đầu cuối ú ớ rơi xuống đất, Chim Chích ngả mình nghỉ trên một cái lá dâu xanh ngần. Chung quanh nó yên tĩnh lạ lùng. Trái đất, cả khoảng chừng khoảng trống bát ngát như nín thở, im ắng cho Chim Chích ngủ. Một lát sau, tiếng mầm cây tách vỏ, rất khẽ thức tỉnh Chim Chích dậy. Nó bay đi, khi trở về mang theo rất nhiều sợi tơ trắng óng ánh. Chim Chích dùng những sợi tơ ấy xây tổ. Tổ của nó tròn như một quả trứng, dính chặt vào lá cây. Xong Chim Chích ngủ, một giấc ngủ thật khoan khoái và say sưa. Khi Chim Chích thức giấc, mùa đông đã qua, mùa xuân đã lại đến. Mặt đất phủ một màu xanh bất tận. Không gian trong sáng thơm ngát hương hoa, hương cỏ. Đã mở màn mùa hội của những loài. Đâu cũng thấy áo màu sặc sỡ của châu chấu, cào cào, dế mèn, bọ ngựa. Đâu cũng nghe rối loạn tiếng cười, lời nói. Chim Chích vỗ cánh. Nó bay về cánh rừng quen thuộc của nó. Dưới cánh bay của Chim Chích, trong xanh màu cây và rực sáng sắc hoa. Giữa cái trong xanh và rực sáng ấy, hiện rõ một mảnh màu vàng gần như chói chang. Chim Chích bỗng cồn cào nhớ bông Hướng Dương đã từng đón nó. Nó bèn thả vào khoảng trống một sợi tơ trắng tinh. Sợi tơ lơ lửng, rồi rơi xuống biển hoa Hướng Dương vàng rực. Hàng chục, hàng trăm bông Hướng Dương bỗng rung rinh, ngước nhìn lên trời theo dõi bóng anh Chim Chích quả cảm và nhân từ đang mỗi lúc mỗi xa dần. Và từ ấy những bông Hướng Dương xinh đẹp chỉ ngoảnh về một hướng. BỆ NHẢY CỦA CHÂU CHẤU XANH Cứ tháng ba, khi hồ nước trong vắt và khung trời màu lá dong chuyển sang màu lá cỏ, làng Châu Chấu, Cào Cào, Bọ Ngựa ở quanh hồ Đại Bản lại mở hội thi nhảy. Đã bao nhiêu mùa thi rồi mà làng Châu Chấu chưa một lần giật giải từ lão Châu Chấu Bạch già khọm body toàn thân trắng phếch đến chú Châu Chấu Nâu râu mềm như một sợi tơ nhện đều lấy thế làm bực mình. Năm nay mới đầu tháng giêng, làng Châu Chấu đã rộn rạo chuẩn bị sẵn sàng cho hội thi. Suốt ngày đêm, tiếng cãi cự, tiếng luyện cánh luyện càng ầm ĩ, lao xao cả một góc hồ. Trước đám dông, một chú Châu Chấu Xanh xinh đẹp nhảy lên ngọn dứa dại, ưỡn cái ngực thon thả, óng ánh như sắt kẽm kim loại, nói : – Nhảy cũng là một cái nghề. Nghĩa là phải học ác lắm. Thưa bà con kính mến ! Tôi sẽ đi một thời hạn, quyết giành vinh quang về cho làng. Tiếng hoan hô nổi lên rào rào. Hôm sau, một mình Châu Chấu Xanh lên đường tìm trường học nhảy. Chú bước tự do giữa cánh đồng xanh um khoai lúa, thơm phức hoa cỏ. Đất trời bát ngát xinh đẹp làm thế nào ! Nắng giàu sang và tỏa nắng rực rỡ làm thế nào ! Ôi màu gì mà lộng lẫy mà chói chang đến vậy ! Một đồi hoa. Đẹp quá ! Ta phải lên đó vỗ cánh, ca hát, bay nhảy. Nhất định rồi sẽ đến ngày đó khi ta đã nhảy cao hơn thiên hạ … Châu Chấu Xanh thả mắt và thả cho cả ý nghĩ bay vút lên tận đám mây hình lá sen vàng ươm màu lúa chín. Bỗng nhiên chú cảm thấy vùng hồ Đại Bản heo hút và chật hẹp quá. Bất giác, chú phủ nhận thở dài. Một anh Cánh Cam từ đâu đùng một cái Open sừng sững trước mặt Châu Châu Xanh. Dựng thẳng người, Cánh Cam nghiến răng trèo trẹo một lúc rồi hỏi : – Này, đi đâu ? Châu Chấu Xanh đứng khựng như bị chôn chân xuống mặt đất. Chú đưa mắt nhìn từ đầu đến chân Cánh Cam. Đấy là một anh Cánh Cam tuyệt mỹ. To lớn, khỏe mạnh, kháu khỉnh. Châu Chấu Xanh cụp nhanh râu và khép cánh lại. Nó cúi đầu rất chi là duyên dáng và uốn giọng : – Tôi là Châu Chấu Xanh. Tôi có bộ cánh xanh óng nên dân làng đặt tên cho vậy. Tôi được chọn cử đi tìm thầy dạy nhảy. Tôi đã vượt qua bao ao, hồ, mương rãnh mà không gặp một ai như anh. Tôi sung sướng lắm vì tôi tin rằng thế nào anh cũng trợ giúp được tôi. Cánh Cam ngoảy cái cổ dài cứng ngắc, cười : – Hì ! Hì ! – Anh Cánh Cam ơi ! – Châu Chấu Xanh vồ vập. – Trời đã xui chúng mình gặp nhau. Anh biết không, tên anh tôi được nghe từ khi áo chưa đủ che thân. Tưởng như gió khắp toàn cầu bát ngát ùa hết vả vào hai lỗ mũi Cánh Cam. Nó cười giòn tan : – Hì ! Hì ! Hì ! Anh nói nghe được. Ta giúp anh gì đấy nhỉ ? Châu Chấu Xanh xúc động rung rung cả mấy cái râu. Cánh Cam nhìn chằng chằng vào Châu Chấu Xanh, mắt ánh lên những tia ranh mãnh : – Anh thích nhảy cao hay nhảy xa ? Châu Chấu Xanh nhanh nhảu : – Thích nhảy cao. Tất nhiên là thích nhảy cao. – Phải ! Cánh Cam gục gặc đầu. – Anh đúng là kẻ mưu trí. – Nó thân thương gác râu lên cổ Châu Chấu Xanh. Sự thân mật lộ rõ trong cái nhìn chếch xiên của nó. Nó nói tiếp : – Anh theo con đường lèo ngoèo kia vào bãi lau ấy. ở đó có thầy Cào Cào đang dạy cho tổng thể những ai trên toàn cầu thích nhảy lên cao. Châu Chấu Xanh hoài nghi : – Còn anh ? – Ta đã học xong. Ta đã nhảy cao hơn cái ta cần nhảy. Đi đi, khi nào gặp khó khăn vất vả cứ tìm đến ta. Nói xong, vút một cái, Cánh Cam chỉ còn một chấm nhỏ trên trời, rồi thoáng chốc biến mất vào chín tầng mây. Châu Chấu Xanh ngửa mặt nhìn lên trời, trố mắt thán phục : – Tài ba ! Tài ba ! Vẻ mặt phấn khởi, đắc ý, chú bước theo con đường Cánh Cam vừa chỉ cho. Ngay chiều hôm ấy, sau vài câu hỏi qua loa của thầy Cào Cào, Châu Chấu Xanh được thu nhận vào trường học nhảy. Sáng hôm sau. Trời mưa lâm thâm. Gió lười nhác lào xào trên mặt nước hồ. Rét như những cái vòi muỗi chích vào da thịt. Bãi nhảy võng vãnh nước. Thầy Cào Cào từ đầu đến chân lấm luối bùn đất. Thầy nhảy thật là cao, cao bằng ngọn cây mưng già. Cũng hoàn toàn có thể là cao hơn. ấy vậy mà khi đặt chân xuống mặt đất thầy vẫn tỉnh táo, thậm chí còn còn có vẻ như ngượng ngùng trước những tiếng xuýt xoa thán phục của học viên. Thầy nói : – Bằng sức lực lao động của mình, cố gắng nỗ lực tập luyện thì sẽ nhảy được cao. Châu Chấu Xanh ngồi xổm trên một mô đất cao ráo dưới tán lá sim sum suê, lẩm bẩm : – Chẳng có chi là lạ ! Thầy Cào Cào nhìn chú, khước từ. Mưa ngớt. Trời lặng gió. Mặt trời như rơi xuống đậu sau sống lưng Châu Chấu Xanh ấm nóng chú mới bước vào bãi nhảy. Tim chú đập lao xao và mấy cái râu thì cứng đờ lại. Giọng thầy Cào Cào dứt khoát : – Một ! Hai ! Ba ! Châu Chấu Xanh chạy. Chú đặt chân lên bệ nhảy – một mô đất lằn dấu chân thầy Cào Cào và dấu chân bè bạn – tung người lên. Chú nhảy qua bậc thứ nhất êm ru. Tiếng hoan hô nổi lên rào rào như cơn mưa mùa hạ. Châu Chấu Xanh vểnh râu, bụng mừng rơn. Nhưng chú chưa thỏa mãn nhu cầu. Cái bậc chú vừa nhảy qua, biết bao nhiêu người khác cũng đã nhảy qua. Ta phải nhảy cao hơn cơ. Như con chim én trên trời ấy. Chao ! Nhìn kìa ! Nó vút lên, mịt mù. Chắc đầu nó đụng được vào đám mây óng ánh sắc hoa cà. Sung sướng quá. Như nó là chỉ thấp thua có lão mặt trời … – Châu Chấu Xanh nghĩ vậy và cảm thấy chân, râu cứ giậm giật, cái áo lụa mỏng mảnh thế cũng rung lên. Chú đi đến trước mặt thầy Cào Cào, nằng nặc đòi nhảy lên bậc thứ hai, thứ ba, thứ tư … Thầy Cào Cào vuốt râu dọc sống lưng chú, khuyên chú hãy từ từ. – Không ! Châu Chấu Xanh vùng vằng. Những cái bậc tôi nhảy phải cao hơn kia. Vốn dễ tính thầy Cào Cào gật đầu. Sợi dây vắt ngang không khí ở bậc thứ hai. Châu Chấu Xanh nhảy. Chú lạng người, văng vào gốc cây mua. Bùn tẩm quanh người chú đen xám. Lúc tập luyện, chuyện ấy là thường, nhưng Châu Chấu Xanh tức tối ra mặt. Chú cau có nhìn sợi dây khoanh thành những vòng tròn trên mặt đất lam nham dấu chân. Chú phớt lờ những cái nhìn động viên của bạn hữu. Một mình lỉnh ra bên gốc mua, chú ngước nhìn trời. Người chú tự nhiên run lên. Chú nghĩ : “ Phải nhảy qua bậc thứ hai, thứ ba và cao hơn nữa … ”. ý nghĩ ấy bám riết chú, cựa quậy trong đầu chú. Có lẽ chỉ có cái chết mới dứt được những tâm lý ấy ra. Chết ư ? Vinh quang sẽ lọt vào tay ai ? Không ! Chú không muốn chết, trọn vẹn không muốn chết. Nhưng bíu vào đâu giờ đây ? Tìm đâu được sự nâng nâng đỡ ? Và trong lúc đầu tưởng như sắp nổ tung ra, Châu Chấu Xanh bỗng nhớ đến Cánh Cam. Châu Chấu Xanh đi tìm Cánh Cam. Chú đi hết rất nhiều đường đất, mới gặp một anh giun. Chú hất hàm hỏi : – Giun kia ! Có thấy nhà vô địch nhảy cao nào đâu không ? Giun quằn mình theo thói quen, thủng thỉnh : – Nhà vô địch chứ nhà gì gì đi nữa cũng sinh ra trên mặt đất, phải có tên gọi của cha mẹ, tổ tiên hoặc hàng xóm đặt cho chứ. Châu Chấu Xanh há hốc miệng ngơ ngác. Chú tự trách mình đã vô ý để phải nghe lời dạy của con giun đất loằng ngoằng. Chú hạ giọng : – Gớm ! Gì mà hách thế ? Ta quên tí chút thôi. Anh Cánh Cam đấy mà. – Trên ngọn cau cao cao ấy. Để tôi dẫn anh đi. Đi đằng này cơ. Khéo dẫm phải xác anh Sâu Róm. Đấy, anh đứng đây nhìn lên. Giun ta với vẻ tự do của người làm xong việc tốt, quay trở lại. Châu Chấu Xanh nhìn lên ngọn cau. Ngọn cau cao ngút ngợp. Chú nhón một chân, nhón hai chân. Trời ! Anh ta ở cao tít mù vậy ư ? Châu Chấu Xanh cất tiếng gọi : – Anh Cánh Cam kính yêu ơi ! Anh xuống đây với tôi đi anh. Ngoài anh ra, thử hỏi còn ai giúp được tôi giờ đây ? Từ trên cao Cánh Cam vơn cổ ngó xuống. Tiếng nó lẫn trong tiếng gió u u : – Ta không xuống đâu. Trên đời ta nhất kiêng tụt xuống. Nói gì thì cứ nói đi. Châu Chấu Xanh kể lại buổi tập nhảy vừa qua. Cuối cùng nó nói : – Làm sao nhảy được lên bậc ba, bậc bốn hở anh Cánh Cam ? Tiếng cười hềnh hệch trên đầu Châu Chấu Xanh. Rồi tiếng cười chìm nghỉm. Tiếng “ bung ! binh ! ” là lạ đằng sau những cái lá cau to lớn hình lưỡi mác vang lên. giọng Cánh Cam như đá rơi vào gốc tre : – Ta sẽ giúp. Hãy đón lấy cái khủng hoảng bong bóng này. Một cái khủng hoảng bong bóng lơ lửng, lơ lửng giữa khoảng chừng không. Vẫn tiếng Cánh Cam : – … Lúc nào nhảy hãy dùng cái khủng hoảng bong bóng ấy đặt làm bệ nhảy. Tất cả, đến lúc đó sẽ hiểu. Cái khủng hoảng bong bóng lơ lửng, lơ lửng, thấp dần. Châu Chấu Xanh ôm chầm lấy cái khủng hoảng bong bóng không tròn và cũng không méo ấy. Nó cứ dập dềnh như cố ý muốn tuồi khỏi tay chú. Rất lâu sau chú mới giữ được cái khủng hoảng bong bóng nằm yên. Đã lặng hẳn tiếng “ bung ! binh ! ” Châu Chấu Xanh đưa được cái khủng hoảng bong bóng về bãi nhảy lúc trời chuyển từ màu hoa lau sang màu hoa cà. ánh trăng lờ nhờ. Sao run rẩy trên trời, dưới nước. Đêm lặng và vắng. Châu Chấu Xanh lò dò đi đến bên giá nhảy. Chú nhìn trước ngó sau, rồi nhanh gọn đặt cái bong bóng xuống kề cái bệ nhảy bằng đất, xong chú phủ lên một cái lá mua non ẹo. Đêm lờ đờ trôi. Châu Chấu Xanh thấp thỏm chờ trời sáng. … Bây giờ Châu Chấu Xanh ngẩng cao đầu, ngực ưỡn về đằng trước, nện từng bước vào vạch xuất phát được làm bằng một sợi dây tí xíu. Nhìn cái lá mua hơi cồm cộm, Châu Chấu Xanh bồn chồn lạ lùng. Hy vọng, lo ngại nhào trộn trong đầu chú. Thầy Cào Cào vừa dứt tiếng hô, chú chạy liền. Chú không đặt chân lên cái bệ nhảy bằng đất mà giẫm mạnh lên cái bong bóng riêng của chú. Như có ai tung Châu Chấu Xanh lên trời bằng một sức mạnh rất ác. Gió vù vù bên tai. Nắng loang loáng. Mặt đất chìm xuống thấp dần, chung chao. Một cụm mây hình quả bưởi óng ánh, rất gần, hoàn toàn có thể đặt chân lên đó. Bất giác Châu Chấu Xanh rụt cổ lại như đầu đã cụng phải cụm mây kia. Nhưng … Cái gì trắng dã, bát ngát thế kia ? Nước ! Bát ngát nước. Cụm bèo tây xanh um. Châu Chấu Xanh đang rơi xuống hồ. Nước nhảy lên, rơi rào rào xuống đầu chú. Tiếng hoan hô bất ngờ đột ngột nổi lên lào xào như tiếng gió trong bãi lau. Châu Chấu Xanh bơi trong ánh mắt khâm phục của bẹn bè và của thầy Cào Cào. Người chú run lên. Run lên vì xúc động. Run lên vì chưa hết sợ hãi. Bãi nhảy đang ồn ào bỗng im bặt. Rồi tiếng thì thào rõ dần. – Sao nhỉ ? Sao nhỉ ? – Dế Mèn do dự. – Có mánh khóe chăng ? Nhất định. – Bọ Ngựa nhăn mặt làu bàu. Nhưng rồi tiếng hoan hô đã nổi lên. Đám đông ùa lại vây chặt Châu Chấu Xanh. Hàng chục cái nhìn khâm phục của những đôi mắt trong suốt vây quanh Châu Chấu Xanh. Thầy Cào Cào không tin Châu Chấu Xanh nhảy cao dường vậy. Có một cái gì đó buộc thầy phải tâm lý. Song càng nghĩ, càng rối. Thầy thấy không có lộ một cái gì gọi được là mánh khóe như Bộ Ngựa bảo. Thầy giụi mắt. Giụi hai, ba lần. Sợi dây vắt ngang không khí vẫn nằm yên lặng ở bậc thứ ba … “ Nghi ngờ trước thành công xuất sắc của người khác là không tốt ” – thầy nói một mình. Đoạn, nhảy lên ngọn cây mua, thầy bảo học viên lạng lẽ, rồi nói : – Châu Chấu Xanh đạt hiệu quả tốt chưa từng thấy ở trường nhảy này. Tôi tin yêu vào tương lai của Châu Chấu Xanh. Nói xong, thầy nhảy xuống mặt đất, đi đến bên Châu Chấu Xanh. Châu Chấu Xanh mê mụ vì mừng vui. Chú mở to đôi mắt vốn đã to của chú, nhìn lướt qua đầu mọi người. Đám mây óng ánh sắc hoa cà vẫn bồng bềnh trên đầu chú. * * * Thành tích của Châu Chấu Xanh được Viral về vùng hồ Đại Bản như một cơn bão nhỏ. Cả làng Châu Chấu tổ chức triển khai một tối ăn mừng. Tiếng hò reo chồng lên nhau, xô đẩy nhau tưởng hoàn toàn có thể lật nghiêng toàn cầu. Họ chờ hội thi. Rồi hội thi đến. Mờ sáng làng Châu Chấu đã tụ tập đông đủ đưa Châu Chấu Xanh đi thi. Dẫn đầu là lão Châu Chấu Bạch tà áo trắng phất phơ, râu uốn cong chạm đất. Tiếp là Châu Chấu Xanh. Chú vừa ra vẻ từ tốn tự tin, vừa có vẻ như kênh kiệu ngang ngạnh, lại vừa ẻo lả làm duyên. Dằng dặc đằng sau những ả Châu Chấu áo màu sặc sỡ, những chú Châu Chấu nhỏ bé da màu đọt chuối vừa đi vừa nhảy và không thôi rung rung những cái râu ngắn ngủn. Làng Dế Mèn, làng Bọ Ngựa, làng Cào Cào, làng Châu Chấu xúm xít thành từng đám vòng tròn. Chỗ ngắt lá làm nhà sinh động, chỗ hì hục đào lỗ trong đất để thức ăn. Chỗ vui tươi căng lá dứa làm chỗ ngồi xem. Không khí sôi động. Náo nức, ồn ào. Các giám khảo gồm thầy Cào Cào, một cô Dế Mèn, một anh Dế Trũi và một chị Bọ Ngựa. Nét mặt nghiêm khắc, họ chạy đi, chạy lại, vẻ bận rộn. Mặt trời đậu ngọn tre hội thi khởi đầu. – Tò ti tè ! Tò ti tè ! Tiếng kèm của anh Dế Trũi giục giã. Châu Chấu Xanh được gọi vào trường nhảy tiên phong. Mắt chú không rời khỏi đám cỏ thia lia. Lúc nửa đêm, chú đã mò mẫm tìm đường ra đây đặt cái khủng hoảng bong bóng ở dưới những lá cỏ thia lia ấy. Mấy lần cái khủng hoảng bong bóng tỏ ra không dễ chiều cứ bật lên, kêu “ bung ! binh ! ”. Nó như không muốn nằm yên cái chỗ Châu Chấu Xanh đã định. Và tiếng “ bung ! binh ! ” như một lời can ngăn, khuyên giải cứ vang lên bên tai Châu Chấu Xanh, chú không nghe, đúng hơn là chú không muốn nghe. Tâm trí chú dồn cả vào cái thắng lợi nay mai chú tưởng tượng ra. Phàm những kẻ đã để cho thứ thắng lợi tưởng tượng ấy mê hoặc thì còn có gì lọt được vào tai ! Đã đến lúc chú quá tin vào mình … Cả lúc này đứng trước bệ nhảy, Châu Chấu Xanh vểnh râu, vẻ dương dương tự đắc. Chú nghĩ : “ Mười bước … mười một bước … Đặt chân lên đó. Tất cả hãy mở to mắt mà nhìn. Chớ có sợ hãi khi thấy ta vút lên cao … ”. – Tò ti tè ! Tò ti tè ! Tiếng kèn cắt đứt nguồn tâm lý của chú. Châu Chấu Xanh chạy. Chú đặt chân lên bệ nhảy – cái khủng hoảng bong bóng – chờ bay vút lên. Một tiếng “ bụp ” như tiếng súng hóp nổ dưới chân chú. Bị hẫng, mất cân đối, Châu Chấu Xanh ngã kềnh xuống bờ cỏ. Chú chỉ kịp thấy chị Kiến Đen bụng căng phồng đang lặc lè bên cái khủng hoảng bong bóng thủng. – Trời ! – Hỏng ! Những tiếng kêu thảng thốt bật ra trong làng Châu Chấu. Châu Chấu Xnah cay đắng nhận ra rằng, cái khủng hoảng bong bóng của anh Cánh Cam đã làm chú thất bại thảm hại. Chú giấu đầu vào bụi cỏ giáp. Chú không muốn nhìn ai lúc này. Trên kia, hội thi vẫn liên tục. Tiếng kèn tò ti tè của anh Dế Trũi lại vang lên lảnh lót. Tiếng hoan hô lại từng đợt nổi lên rào rào như cơn mưa mùa hạ. Châu Chấu Xanh nghe tiếng thầy Cào Cào run run : – Tôi kỳ vọng ở nó … Không ngờ … Tiếp đó là tiếng lão Châu Chấu Bạch lầm rầm nghe không rõ. Châu Chấu Xanh muốn nói với thầy Cào Cào, với lão Châu Chấu Bạch, với toàn bộ rằng chú đã chọn sai bệ nhảy. Nhưng chú không nói thành lời, đúng hơn là chú nói chưa thành lời. Nỗi hối hận như biến thành nước mắt tràn ra từ đôi mắt quen nhìn lên cao của chú. CON MÈO MUN Sau mấy trận đánh nhau với lũ chuột cống, mẹ tôi bị ốm nặng. Tuổi già, sức yếu không thắng nổi con bệnh, mẹ tôi từ trần. ấy là những ngày mưa lui phui, màu trời xám xịt. Ông chủ đưa mẹ tôi ra mai táng cạnh gốc bưởi sau vườn. Tôi lừ đừ theo sau, lòng buồn rượi. Ôi, bỗng chốc tôi trở thành một đứa trẻ mồ côi. Rồi đây ai sẽ ủ ấm tôi ? Ai sẽ vuốt ve tôi ? Ai sẽ đưa đến cho tôi những miếng thịt chuột béo nhẫy, những con cá đồng thơm phức ? Nghĩ đến đó, nước mắt tôi rơi lã chã. Như biết mẹ tôi mất, tối ấy lũ chuột kéo vào bồ lúa nhà ông chủ. Chúng ăn, chúng phá, đến nỗi sáng ra nền nhà trải một lớp trấu dày, đi trên đó như đi trên chăn, trên nệm. Tôi thấy ông chủ cầm cái chổi đứng như một cây cau giữa nhà, thở dài, vẻ ngao ngán. Đoạn, ông chủ quất chổi lia lịa nguyền rủa lũ chuột và tắc lưỡi chừng thương tiếc mẹ tôi nhiều lắm. Bữa cơm sáng ấy, ông chủ cho tôi một con cá rô còn dính mỡ lợn trắng lốp và bảo : – Từ nay chú mày phải chăm sóc thao tác. Đánh chuột, giữ nhà là việc làm của chú mày. Nghe rõ rồi chứ ? Tôi không tỏ thái độ gì. Đang lúc ăn, lại một bữa ăn ngon, hơi đâu mà bận tâm lo nghĩ ! Bên ngoài trời vẫn mưa dườn dượt. Gió rên u u trên cành cây. Trong nhà, trước cửa, chỗ nào cũng có rét ngự trị, chỉ trừ một khoảnh tròn quanh ông kiềng sắt. ở đây, nhiều khi khói nghi ngút cay sè, tàn lửa bắn ra hoàn toàn có thể sém da cháy râu, nhưng nói chung thì dễ chịu và thoải mái. Tôi nằm lì bên nhà bếp. Cả lúc lũ chuột ăn no cười rinh rích trên bồ lúa nhà ông chủ, tôi cũng không rời nhà bếp than hồng. “ Tội gì mà lên cho rét. Đến như mẹ võ nghệ cao ráo là thế, khỏe mạnh là thế mà còn bị đánh bị thương nữa là … ”. Nghĩ vậy, tôi gối đầu lên cánh tay chờ đón giấc ngủ. Sáng ra tôi còn mắt nhắm mắt mở, đã nghe ông chủ quát tháo : – Đồ lười ! Suốt đêm qua mày ngủ khì để lũ chuột ăn lúa, phá cả rương áo quần của tao. ở với tao nuôi nấng mày không phải để mày ăn cho căng bụng rồi khoanh tròn quanh kiềng sắt. Hừ ! Đóng sách mà đến thằng chó Cún nó bày cho cách siêng năng làm ăn. à ! Tao nói, mày còn vểnh râu lên trêu tức tao phỏng ? Phải đâu tôi có ý trêu tức ông chủ ? Bởi cái thói quen của họ nhà mèo nhà tôi nó vậy. Sao ông chủ không hiểu cho tôi điều đó ? Tôi cất tiếng biện bạch : – Meo ! Meo ! … – Hử ! Meo ! – Ông chủ ngắt lời tôi, có ý không tin những lời tôi nói nữa. Tôi nhảy qua đầu con Chó Cún giữa nhà ghếch mõm lên bàn. Thật hẩm hiu cho tôi ! Tôi chỉ định diễu võ dương oai một tí để ông chủ nể tôi hơn, nhưng không ngờ lớ ngớ thế nào chân tôi đá trúng ấm trà ; cái ấm quái ác lăn lông lốc xuống nền nhà, vỡ tan. Nước bắn lên lấm tấm từng chấm trên áo quần ông chủ. Ông chủ chộp lấy cổ tôi, nhấc bỗng tôi lên. Người tôi chới với tức thở nhưng tôi ngậm râu yên lặng, không quên rặn vài giọt nước mắt trong vắt. Ông chủ nhìn tôi, giọng nghiêm khắc tôi chưa từng nghe : – Này ! Cẩn thận vào ! Rồi ông đặt tôi xuống chỗ cũ, nghĩa là trên bàn. Chó Cún và lão Ngan Bạch thập thò ngoài cửa ném những cái nhìn trách móc vào tôi. Tệ hơn, Chó Cún còn khịt mũi ầm ĩ, nhổ nước miếng đánh xẹt xuống bục cửa. Sao mặt họ nhâng nhâng nháo nháo vậy ? Tôi bỗng thấy tức giận toàn bộ, từ ông chủ, Chó Cún, lão Ngan Bạch, đến cả con Kiến Lửa, ả Nhện bé tí xíu trước mặt tôi … Lát sau ông chủ đưa đến đặt trước mắt tôi một bát cơm chan nước cá khô với nghệ vàng ươm và bảo : – Ăn đi ! Tôi không nhúc nhích, không hề nhúc nhích. Ông chủ bỏ ra vườn. Tôi lau miệng cúi xuống bát cơm định ăn. Bỗng tiếng con Chim Sáo chua loét thì thào bên tai tôi : – Bác Mèo Mun ơi ! Bác ăn bát cơm ấy mà không thấy nhục ư ? Tôi ngơ ngác. Con Sáo lại nói tiếp : – Khổ cái thân bác. Tôi thương bác lắm lắm thôi ! Sao bác lại không bỏ mà đi chỗ khác ? – Đi chỗ khác ? – Tôi kinh ngạc hỏi và thấy cái gì rân rân chạy dọc sống sống lưng. – Bác ạ ! Bác hãy đến cái nơi mà ai ai cũng kính trọng bác, nơi mà bác được sống tự do. – Ta được sống tự do, được quý trọng ? – Tất nhiên ! Bởi lẽ cái phong thái, cái nhan sắc, cái dòng dõi Mèo Mun của bác phải như vậy. Nhất nhất phải vậy ! “ ừ, phải ! – Tôi nghĩ. – Ta đi khỏi đây, đến cái nơi đó, nơi có tự do, có người biết vàng, biết thau mà quý trọng ta. Dễ tưởng ta không tìm được nơi tốt đẹp cho cuộc sống ta sao ”. Tôi cảm thấy khoan khoái trong người và phốc một cái, tôi nhảy qua hành lang cửa số. Tiếng cười của Chim Sáo trượt qua sống lưng tôi, vút về đằng trước. Dãy chè mạn hảo loằng ngoằng dây tơ hồng vàng rộm, cây cau nghiêm trang và yên lặng hằn dấu tay tôi, bậc đá trơn, đen nhẫy như da cá chuối … Tất cả đi ngược chiều tôi, khuất hẳn. Đến bờ ao tôi gặp Chó Cún, Chó Cún hỏi tôi, cái mặt dài thuỗi ra : – Cậu đi đâu nhé ? Tôi đáp : – Ta đi đến cái nơi ta sẽ sống tự do, ta sẽ được mọi người kính trọng. Chó Cún cào cào hai bàn chân xuống đất, nhăn mũi : – Sao cậu lại bỏ nhà, bỏ nơi yên ấm mà đi ? – Tôi cao giọng : – Ta đến nơi ta thích. – Cậu đừng đi ! Cậu đừng đi ! – Giọng Chó Cún tha thiết. Rõ ràng nó trọn vẹn không muốn xa tôi : Tôi vểnh râu : – Nhảm ! Chó Cún đứng sững lại, khước từ. Đi được một khoảng chừng nữa tôi gặp lão Ngan Bạch. Lão hỏi : – Cậu đi đâu nhé, cậu Mèo Mun ? Tôi vấn đáp : – Ta đến cái nơi ai cũng kính trọng ta, nơi ta sống tự do. – Việc vừa xẩy ra cậu cũng có lỗi. Sao cậu lại bỏ nhà mà đi ? Tôi vểnh râu : – Nhảm ! Lão Ngan Bạch quay ngoắt, nhảy ùm xuống ao. Tôi đi qua lũy tre làng kêu kẽo cà kẽo kẹt như tiếng võng tôi nghe vào những trưa hè trong ngôi nhà tranh sau vườn nhà ông chủ qua cánh đồng xanh um khoai lúa, qua đồi sim tím ngát hoa. Trời trên đầu tôi trong veo. Gió lao xao. Nắng rót xuống từng giọt vàng như kén tằm. Đất trời to lớn quá. Nơi tôi đến là một cánh rừng rậm rạp. ở đây dông đủ những loại : từ ông Voi to bằng cái nhà, da dẻ sần sùi, gớm ghiếc, lão Gấu mặc áo xám nhàu nát, ả Hươu mặc áo hình ngôi sao 5 cánh vàng ươm, thằng Thỏ mặc chiếc áo trắng tuyền, gã Cáo mặc áo vàng bảnh chọe, mắt lúng la lúng liếng, đến thằng Gõ Kiến suốt ngày đánh mỏ tụng kinh, con Dế Mèn có mấy cái râu dài như râu cá trê, thằng Bọ Ngựa gầy khẳng gầy khiu … Thôi thì, đủ cả. Tôi sửa sang lại bộ quần áo, vuốt râu cho ra vẻ đứng đắn, rồi chỉnh chện bước ra giữa đám đông. Thấy tôi, bọn họ xúm cả lại hỏi han đủ điều. Rồi họ yên lặng nghe tôi kể đầu đuôi sự tình. Tôi kể xong, quanh tôi không còn ai nữa. Ông Voi ghếch vòi đùa với gốc lim xám mốc, lão Gấu gầm gừ trong cổ nhại tiếng sấm tháng ba. Dế Mèn chui vào gốc mua kéo vi-ô-lông ri rỉ, thằng Gõ Kiến đánh mõ ầm ĩ như có đám cháy gần sống lưng. Tôi bồn chồn, nhưng vẫn giữ được vẻ thản nhiên. Và tôi cố làm ra vẻ thản nhiên thêm bằng cách vuốt râu và lơ đãng nhìn trời. Phút chốc quanh tôi vắng hẳn, tĩnh mịch hẳn. – Cóc cần ! Ta cóc cần những ngươi. – Bất giác tôi cất tiếng nói một mình. Tôi thật không ngờ tiếng tôi vang to đến thế, nó ran ran vượt qua bụi gai đọt đỏ sậm, lan mãi vào đầu trong rừng sâu. – Phải ! Anh nói thế là phải. Anh đã xử sự như một bậc đại trượng phu – tiếng ai liến thoắng bên tai tôi. Tôi quay lại. Cáo Vàng đứng dưới một bụi cây lá chụm từng chùm như những con cá rô. Đôi mắt lúng la lúng liếng của nó vuốt dọc người tôi. Cái mặt dài ngoẵng đầy những vết sẹo ngang dọc đang không thôi giật giật. – Tìm bạn mà chơi, tìm nơi mà ở. – Cáo nói, giọng dẻo quẹo. – Đứa nào bảo rằng anh bậy ? Thằng Thỏ nhát như cáy ấy à ? Ông Voi thật như đếm ư ? Hay lão Gấu cù mì cục mịch ? Anh mà cũng phải nghe bọn ấy sao ? – Đâu ! Ta đâu nghe !. – Tôi cãi. Cáo vuốt dọc cánh mũi : – ấy ! Tôi cũng nghĩ thế. Ai tin được rằng anh nghe bọn ấy ! Bây giờ trời đất xui khiến tất cả chúng ta gặp nhau, âu cũng do cái duyên của anh. Anh hãy ở đây với tôi. Nhà tôi bốn bên, xấp xỉ bằng đá tất. Cuộc sống của tôi là những chuỗi ngày tự do. Tự do dọc ngang trời đất. Trong bụng đã thấy ưng ưng, nhưng tôi vẫn nói : – Ta không có dự tính dừng lại ở đây đâu. Bỗng Cáo cười lớn : – Không có dự tính ở đây ! Hớ ! Hớ ! Thế thì đi đi. Hớ ! Hớ ! Thử hỏi anh đi đâu ? Hả ? Anh đi đâu ? Khuôn mặt nó nhòe vào bóng tối lờ mờ. “ Trời tối thật rồi ” – Tôi nghĩ, bụng lo ngại. – Là tôi nói vậy. Thôi tất cả chúng ta về. Cái bóng đêm chui lung tung vào khắp chỗ tôi. – Cáo nói. ở rừng trời chóng tối hơn, thoắt cái nhà cáo đã đen kịt. Sờ tay chỗ nào tôi cũng cảm thấy lạnh. Hếch mũi ngửi chỗ nào tôi cũng thấy mùi khăm khẳm. Cáo đi ra khỏi nhà, lát sau nó đem vào một cái gì sáng sáng bảo là đèn, giống như hòn than trong nhà bếp nhà ông chủ tôi dạo trước. Nhưng không phải than vì sờ vào không thấy nóng, với lại nó xanh xanh chứ không đỏ đỏ. Về sau tôi mới biết là ánh lân tinh trên một que gỗ chết lâu ngày. Cáo bảo tôi : – Cậu ở nhà. Nhớ đừng ngủ. Tôi xuống làng có chút việc. Nói xong nó nhẹ nhàng không phải đi mà luồn ra khỏi nhà. Còn lại một mình, tôi thu mình lại sợ hãi nhìn ra ngoài trời đêm đen kịt. Rừng đang thở, đang trò chuyện, những tiếng nói khó hiểu. Nửa đêm Cáo về. Nó cắp theo một chú Vịt non choẹt. Nó ngồi xổm giữa nhà vặt lông vịt. Loáng cái, nó đã nhai nhồm nhoàm. Nhìn Cáo ăn, tôi tởm. Nhưng cái đói xua nhanh cảm xúc ấy. Tôi ăn miếng thịt vịt cáo trao cho. Đây là lần tiên phong tôi ăn thịt sống, thì ra nó cũng ngon không kém chi thịt kho ông chủ tôi thường cất trên chạn. Đêm sau Cáo bàn : – Cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi có những chiến công hiển hách. Ta chỉ được kính trọng khi làm cho nhiều kẻ phách lạc hồn xiêu. Cậu đủ tài trí làm ra chuyện đó. Tôi nhanh nhảu : – Phải ! Chí phải ! Cáo nhấp nháy mắt : – Đêm nay tôi sẽ đưa cậu xuống làng Gà. Thế nào ? Tôi tin là anh không có sợ hãi chi. Tôi đứng thẳng dậy : – Phải ! Ta có sợ hãi chi ! … Chúng tôi lò dò đi trong đêm tối mịt mùng. Đến trước cổng một ngôi nhà đầu xóm, Cáo bảo tôi đứng đợi nó dưới gốc nhãn, rồi nó nhẹ nhàng đến kỳ lạ, chui tọt qua hàng rào. Tôi lắng nghe động tĩnh chung quanh. Tiếng bọn trẻ học bài râm ran. Tiếng bà chủ nhà ru cháu bên cái hành lang cửa số có đèn chói sáng. Tiếng một gã chó hát khàn khàn. Bọn dế ri rỉ dưới chân tôi những bài ca ra chiều tha thiết lắm. Thỉnh thoảng một con đom đóm sà xuống rắc lửa trên ngọn cỏ làm những giọt sương mừng quýnh sáng lóe lên. Mùi cá nướng thơm rỏ dãi. Mùi cơm điếc cả mũi. Tôi có cảm tưởng mình đang lạc vào một xứ sở no ấm yên bình. Bỗng tiếng một con gà nào đó kêu lên thảng thốt. Tiếng chó rộ lên từng chập. ánh đèn loang loáng. Tiếng người quát tháo. ễnh ương, nhái bén nhảy rào rào khắp vườn. Tôi chưa biết đầu đuôi xuôi ngược ra làm sao thì đã thấy Cáo chạy vụt ngang trước mặt. Nó thốt nhỏ vào tai tôi : – Chạy ! Tôi quay ngoắt ! Cành cây tạt ngang má tôi, dây rợ quàng ngang ngực tôi. Mặc ! Tôi lao theo cái bóng đen của Cáo. Về đến nhà tôi mới nhận ra chiến công của Cáo. Nó mang về một con gà vàng béo múp míp. Ăn xong, Cáo lấy cùi tay quệt ngang mồm, phả hơi vào tai tôi : – Nhà ấy thưng thố có ra chi. Vào dễ như chơi. Cậu vào một phen thử nhé. – Nó nhăn mặt nhìn tôi, rồi nói tiếp. – Với anh có việc gì mà không làm được, phải không anh Mèo Mun ? – Phải ! Phải ! – Tôi quả quyết. * * * Nhiều đêm trôi qua, nhiều tháng đã trôi qua … Bởi không có lịch nên tôi không biết tôi sống chung với Cáo đã bao ngày, bao đêm rồi. Tôi đã quen chỗ mới. Cái lệ rửa mặt mỗi bận mặt trời mọc của nhà họ Mèo chúng tôi, tôi bỏ đi từ khi nào không còn nhớ nữa. Tôi đâm nghiện thức ăn sống và thành thạo cách ăn bốc. Cách đi đứng của tôi cũng đổi khác : rón rén hơn, quay ngang, quay dọc nhanh gọn hơn. Đi trong đêm, dẫu là tối mịt tối mùng tôi không khi nào vấp ngã. Nghĩa là tôi đã quen thuộc bóng tối đến mức tài tình. Rồi những bữa ăn không có thịt sống mồm miệng nhạt thếch. Tôi thầm nghĩ mình đã trở thành một chàng Mèo Mun tuyệt vời, lý tưởng. Cho đến một đêm … Cáo xuống làng. Tôi ở nhà. Mãi nửa đêm Cáo mới về. Nó cắp theo một lão Ngan áo trắng như vôi. Lão chưa chết hẳn, miệng lầm rầm những lời khó hiểu. Cáo Vàng hổn hển : – Phải mấy bữa ngon lắc lư. Lão Ngan mở mắt nhìn tôi chằng chằng và nói : – Bọn Cáo chúng mày … gian ác … Tôi bật dậy : – Láo ! Lão Ngan mở to cả hai mắt. Lão đứng dậy, nhưng không đủ sức đứng vững nữa. Lão đổ vật xuống cạnh tôi. Tôi thụt vội chân lại. Một cái gì đau nhói trong tim. Mềm nhũn dưới chân tôi chính là lão Ngan Bạch. Lão đang hấp hối nhìn tôi. Ôi, quả đất xoay tròn ! Ngày tôi còn nhỏ, có hôm lão cho tôi cả con cá thia lia. Dưới cây cau trước cửa, lão thường hát những bài ca lão thuộc hồi còn trẻ cho tôi nghe lúc tôi tập leo lên ngọn cau cao ngút ngợp. Rồi bữa mẹ tôi mất, lão đi sau tôi khóc sụt sùi … – Ra mày đ … ấy ư ? – Giọng lão Ngan Bạch đứt quãng như từng viên đá ném thẳng vào mặt tôi. Mày làm cái nghề này ư ? Ăn thịt được tao thì mày cứ ăn đi. Ăn đi ! Tao có tiếc chi cái thân tao. Tao chỉ tiếc những giọt nước mắt của tao, của Chó Cún, của ông chủ đã khóc thương mày vì tưởng mày đã chết. Tao tiếc bọn tao đã mất thì giờ ngồi cầu mong cho mày gặp người tốt biết ăn ở, biết đạo cư xử ở đời. Chao ! Thật không ngờ mày đến ở với Cáo. Tôi cụp tai không còn muốn nghe lão Ngan Bạch nói tiếp. Nhưng lão cũng không nói được nữa. Cáo đã thít chặt cổ lão. Lão rùng mình duỗi thẳng hai chân, gối đầu lên cánh. Lão chết ! Tôi đứng dậy, trong người như có cá quẫy. Im lặng vây chặt tôi, bóp nghẹt ngực tôi. Tôi lững thững đi ra cửa. Cáo Vàng trố mắt nhìn theo. Rõ ràng nó ngơ ngác. Nó không hiểu chuyện vừa xẩy ra, không hiểu tâm trạng của tôi. Tôi đi ra cửa đến rìa rừng thì trời lờ mờ sáng. gió thổi lồng lên. Những bụi cây lúp xúp ngã dúi dụi vào nhau, nằm mọp lên nhau. Trước mắt tôi là cánh đồng. Sương sớm như vải mỏng mảnh ; xa hơn nữa, những cuộn khói lặng lẽ lững lờ cuộn lên không trung. Tôi nghe mùi khói nhà bếp hăng hăng. Lẫn trong mùi khói nhà bếp ấy có một cái gì vô vàn thân mật, quen thuộc tôi cố nhớ nhưng không tài nào nhớ nổi. Lòng bỗng da diết buồn. Trút một hơi thở dài, tôi liên tục đi. Không biết bao nhiêu thời hạn đã trôi qua, bao nhiêu cảnh vật, bao nhiêu âm thanh đã lùi khuất sau sống lưng. Chân tôi chững lại ; ngay trước mặt tôi, cách tôi chưa bằng một quãng nhảy là mộ mẹ tôi. Tôi nằm mọp xuống, lòng bùi ngùi. Mưa nắng, năm tháng đã bào mòn mộ mẹ tôi, chỉ còn một nắm đất sè sè lởm chởm cỏ gừng. Tôi ngước nhìn lên ngọn bưởi, nhìn lên lá chuối, lòng muốn thấy một ai, muốn gặp một ai. Bỗng có tiếng động đằng sau sống lưng. Tôi quay lại. Cách tôi vài bước là Chó Cún. Chó Cún nhăn trán nhìn như khoan như xoáy vào mặt tôi. Mắt nó ánh lên những tia sáng khó chịu. Sao thế nhỉ ? Nó quên tôi rồi sao ? Chao ! Trí nhớ của nó dở vậy ư ? Ta là Mèo Mun đây ! Chó Cún vẫn lặng yên, vẫn nhìn xoáy vào mặt tôi. Hay là không phải Chó Cún ? Không ! Nó chứ còn ai nữa. Cái nước da đen như đít nồi rang, tai trập, miệng rộng, một nốt ruồi đỏ nơi đỉnh mũi không hề lẫn với ai được … Tôi cất tiếng : – Meo ! Meo ! Tôi chưa kịp nói gì thêm thì Chó Cún gừ lên một tiếng rồi chồm vào tôi. Nó hét lạc cả giọng : – Cáo ! Cáo ! Hoảng quá, tôi vừa chạy quanh mộ mẹ tôi, quanh gốc bưởi, vừa thanh minh : – Ta đây ! Ta là Mun đây ! – Cáo ! Cáo ! – Chó Cún mỗi lúc một gào to như gọi thêm ai đó và càng dữ tợn xông vào tôi. Bỗng tôi nghe : “ Vèo ! Vèo ! ”. Liên tiếp mấy hòn đá bay vút qua đầu tôi. Tôi nhận ra ông chủ. Phải, ông chủ đang tới tấp ném đá vào đầu tôi. Với mấy miếng võ Cáo dạy cho, tôi quật Chó Cún ngã nghiêng rồi luồn nhanh vào bụi tre ra đồng. Biết ông chủ và Chó Cún đuổi đằng sau, tôi rẽ ngang xuống một ruộng lúa tốt xum xê, nằm dán bụng, dán mặt xuống bùn nhão nhoét. Tiếng Chó Cún vang trên đường : – Chà ! Chà ! thằng Cáo Đen. Nó đứng chõ mõm nhìn chuồng gà. Đích thị nó giết lão Ngan Bạch của ta. Tôi xông vào, xông vào. Tiếng ông chủ nghe hiền lành, khen Chó Cún :

– Giỏi! Mày giỏi!

Tôi nhổm hẳn dậy rồi ngồi rũ người xuống. Trời ơi ! Họ không nhận ra tôi nữa. Đến anh bạn Chó Cún ở với tôi từ nhỏ, mấy trăm bận cơm hai đứa cùng ngồi dưới bàn chia nhau từng miếng cá, miếng mắm, giờ cũng gọi tôi là Cáo. Tiếng ồn ào nhỏ dần về phía làng. Một mình tôi giữa đồng. Tôi nuốt nỗi buồn, nỗi đắng cay vào bụng, tính việc phải làm. Và tôi quyết định hành động viết thư cho ông chủ, cho Chó Cún nhận toàn bộ sai lầm đáng tiếc, cầu mong tấm lóng nhân hậu của họ để được trở về nhà với cái tên Mèo Mun của tôi mà làm lại cuộc sống. /.

Rate this post

Bài viết liên quan