Trong chộn rộn âm thanh tháng Chạp – tháng bận nhất của năm cũ nguyệt lịch, tháng mở đầu năm mới của toàn thế giới, tôi lại xúc động nhớ và mong thứ âm thanh sinh động của đời thường, đã thành một mạch kí ức tôi, kí ức bao người từ thơ ấu: Những tiếng rao.
Có hàng trăm loại hàng, dịch vụ đi rong, nếu liệt kê thì chao ôi, đa dạng: nhu yếu phẩm, quà vặt, đồ ăn uống, đặc sản, việc thủ công và cả những việc phức tạp theo mùa vụ.
Bạn đang đọc: Tiếng rao đời
Không khó để liệt kê, thống kê tiếng rao mà tất cả chúng ta đã nghe, đã thuộc, đã nhớ. Và sẽ chẳng ai thống kê nổi tất thảy mọi loại tiếng rao trong đời mình, trên đời này. Thứ âm thanh rung lên từ thanh đới người cần lao lan hang cùng ngõ ngách, nẻo đường, đã tỏa vào từng tầng kí ức triệu người, đã thành một mạch chảy sôi động và bồi hồi trong hoài niệm chồng lớp của mỗi tất cả chúng ta qua tháng, qua năm .
Không đơn thuần chỉ mang tính thông tin loại sản phẩm cần bán / mua, nhu yếu được trao đổi ship hàng, tiếng rao phản ánh sự hoạt động của lịch sử dân tộc đời sống xã hội. Có những tiếng rao thời trước không còn ở thời nay .
Nó chỉ vang lên khi nhớ lại giữa vô vàn âm thanh lưu vào nếp não tiếng nói cười, giọng của mọi người ; thì dù muốn hay không, tiếng rao của người bán hàng tưởng lạ lẫm kia đã lọt vào tiềm thức tất cả chúng ta. Tất nhiên cũng có những người bán quen với người mua, thậm chí còn thân mật, thân thương .
Hai bên biết về thực trạng sống của nhau, san sẻ, trợ giúp nhau, vượt khỏi khoanh vùng phạm vi thanh toán giao dịch mua và bán thường thì. Trong quốc tế âm thanh khổng lồ phản ánh nhịp đời, sự sống, tiếng rao của nhiều phận người từ những miền quê, làng xóm ra đô thị mưu sinh, đã cấu thành kiến trúc âm thanh của một đời sống phức tạp .
Nó phản ánh tính phong phú chúng sinh, những những tầng lớp, hạng người … chưa khi nào ngừng dẻo dai, chịu khó, hoạt động vì miếng cơm manh áo. Với lao động, góp phần dù nhỏ và sơ giản cũng góp thêm phần hình thành và duy dưỡng thiết chế đời sống, với những biến tấu, thay đổi, thích nghi theo nhịp thời đại .
Chưa chắc theo kịp hay không, nhưng sự đổi khác năng động của những người rao hàng còn phản ánh sự độ lượng của đời sống, của Trái đất này : dưới mặt trời, có chỗ cho toàn bộ, theo chức phận, năng lực, số mệnh mỗi sinh linh. Một thứ tiếng rao trải qua những thời kì mãi đến giờ chưa khi nào ngừng nghỉ – tiếng rao đồng nát .
Tuổi thơ của tôi, được sống 6 năm thời bao cấp và hơn 10 năm sau đó vẫn còn dấu vết thiếu thốn của thời kỳ này : ” Ai hàn dép, chậu … hàn ấm, nồi không ? ” ; ” Ai đổi dép, xoong nhôm, ấm, chậu đổi cũ lấy mới đơ … ơi ? ” .
Giờ không thấy ai hàn dép, chậu nữa, nhờ đời sống khá lên, đồ nhựa cũng không đắt ; rách nát, nứt là bán đồng nát. Không ai vá quần áo rong. ” Xoong niêu ấm chậu đổi đê ! Ai đổi xoong đê ! Rổ, rá, xô, chậu, lồng bàn, mắc áo, chổi lau nhà nào ” vẫn đang nghe bằng loa thu sẵn .
Lâu lâu, gặp một ông già đẩy chiếc xe kềnh càng với lủng củng nồi, chảo, chậu đúc bằng nhôm mỏng tang, vẫn còn cho đổi. Hàng kẹo kéo, tào phớ đi đâu ? Sợi mạch nha kéo trắng, lê dài mãi … mỏng dính rồi đứt mất, đứt luôn tiếng rao. Tào phớ trong thùng gỗ, bà hàng lấy vỏ trai to hớt từng lớp nhẹ, mỏng mảnh, chan nước đường ngâm hoa nhài .
Người bán rong trên phố, cả tào phớ lẫn chè, lại là đàn ông đi bán. Còn muốn ăn hàng ngày thì ra hàng đậu phụ, đậu nành đóng túi nilon bày cạnh đậu, bày trên tấm gỗ đặt miệng xô, đem về mà tự pha đường .
Tiếng rao gợi tưởng tượng về TP. Hà Nội trước 1945, trong văn của Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Tô Hoài, Vũ Bằng. Vang và ấm lên đêm Đông tiếng rao sáng sớm, đêm khuya của những chú Hoa kiều nói lớ tiếng Việt, bác bán phá xa ( lạc rang ), phở gánh đêm .
Có người ý niệm hàng rong là thứ quà rẻ tiền, không ngon bằng cửa hiệu, thế là sai, phiến diện. Có thể đi rong ruổi suốt, công tác làm việc vệ sinh bảo đảm an toàn thực phẩm ( nói như ngôn từ thời nay ) không bảo vệ lắm, bởi chuyện rửa ráy khó kĩ càng, vì thiếu hoặc không tiện nước non. Nhưng hàng rong ship hàng cho nhiều lớp người, ở những địa hình .
Một sự tiện, sẵn, bất kể trời nóng hay lạnh. Người ăn không phải đi đâu, chỉ cần ới gọi là người bán kề ngay thúng, mẹt, xe hàng vào bậc cửa, đưa tận nơi hoặc thả vào rổ buộc dây kéo khi khách ở trên gác. Màu tóc bạc dần theo thời hạn, người mua tóc dài, tóc rối thời nào cũng có. Có điều, tiếng rao ” tóc rối đổi kẹo ” thời tôi niên thiếu khác hẳn lúc tôi tuổi trung niên. Nay, thảng hoặc lại nghe, giật mình vì tiếng rao thu âm ngỡ ai gọi : ” Có tóc dài tóc rối bán không cô ơi ? ” ” Tóc dài, tóc rối bán đi chị ơi ! ” .
Tiếng rao là xã hội thu nhỏ. Tiếng rao thể hiện thổ âm, phương ngữ vùng miền, thậm chí còn biểu tỏ sức khỏe thể chất, tuổi tác của người rao, dù ta tưởng lời rao là thói quen, vô cảm hay quán tính. Người bán rong mang theo loại sản phẩm đa phần tự làm, do khéo tay, do gia truyền hoặc nghề của làng, có khi lấy hàng buôn .
Cơ bản là thế, lại có những đánh cắp, nhận xằng thứ đặc sản nổi tiếng ấy là của quê mình, dù họ là người tỉnh khác, để tạo thiện cảm, lòng tin với khách ăn, khi thứ đồ ấy đã thành thương hiệu của một vùng miền. Tiếng rao mê hoặc bởi nó không chỉ mang thông tin thức hàng được bán, mà còn tiềm ẩn cả thẩm mỹ và nghệ thuật tiếp thị, quảng cáo .
Họ dễ gây chú ý quan tâm bằng cách nhấn nhá, tiếng gõ kèm, lấy tình cảm của khách quen bằng việc nhớ tên khách, dữ thế chủ động hỏi để mua nhờ, nài ủng hộ, mua giúp khi hàng ế chậm. Vui hơn, họ còn ghép thành vè, và còn tự khoe : ” Nhà em / nhà cháu rao cứ như thơ ” .
Thời công nghiệp, từ tiếng rao báo, đồng nát, mua đồ điện cũ, bán quần áo, khăn mặt, khăn tắm, mua chó mèo cũng thu vào loa. Giọng thu sẵn này chủ yếu giọng nam, ầm ĩ qua loa gắn bình ắc quy, chín phần mười nói ngọng, phát băng thu sẵn với âm thanh quá cỡ, nghe mất hẳn đặc trưng của người rao, tiết lộ gì về nguyên quán, bởi họ đã tiết kiệm sức bằng giọng ráo hoảnh, liên hồi, oang oang: “Bàn là quạt cháy máy bơm/ Ti vi tủ lạnh nồi cơm bộ đàm/ Công tơ cassete đầu dàn/ Dùng lâu đã hỏng thành hàng bán đê”.
Tiếng rao cần bán, tiếng rao cần mua làm ra âm thanh đường phố, âm thanh đời. ” Ổn áp Lioa, đầu dàn, bình ác quy hỏng, TV, củ đề, củ phát, máy hàn bán đi / Ai có máy điều hòa, máy giặt cũ hỏng, vi tính, quạt trần trên nhà cũ hỏng mang ra bán nào ! “. Đội ngũ trai tỉnh lẻ chở bình gas sau xe máy lạng lách khắp nơi, mà vẫn còn người kẽo kẹt rao bán đèn măng sông mới … lạ !
” Khăn mặt giảm giá, siêu sốc, siêu rẻ đơ … ơi / Bà con quan tâm, chỉ bán trong buổi chợ sáng nay, mua ngay, mua ngay, mua liền tay, được ngay siêu rẻ ! ” .
Một số hàng rong thay lời bằng biển. Chị bán bánh đa kê cắm miếng bìa vào nan tre, trên viết gọn bằng một chữ ” Kê “, đứng rìa chợ cóc rồi người này người khác mua, bà con sẽ nhìn thấy mà ghé vào, chẳng phải rao gì. Mấy gã, mấy bà thu mua lông gà, lông vịt chẳng hành nghề ở thành phố, lại gặp ở nông thôn. Nơi ấy, có tiếng rao : ” Ai mua chậu nhựa, rổ nhựa, đồ mây tre ” .
Sự độc lạ về tiếng rao ở thành phố là do nhu yếu, đặc thù đời sống, nếp sống. Hàng quà ở quê ít hơn, người có sức lao động ở quê đổ ra đô thị. Thị thành làm nhà hầu hết dùng sơn sơn tường, nông thôn vẫn còn những lò vôi. Người bán vôi tôi rao gọi với chiếc xe bò rộ lên vào quý cuối .
Sự sẵn và văn minh của máy móc, công nghệ tiên tiến và dịch vụ Giao hàng những bà nội chợ tận ” răng “. Từ thực phẩm làm sẵn ở chợ đến bột xay sẵn, bột ăn liền cho những bé. Giao hàng tận nhà, bán hàng qua mạng khiến tiếng rao xay bột rong, ” Ai mua rươi, cóc làm ruốc không ” chẳng còn. Tiếng rao rươi của người vùng Sấu Giá thành ” Ai mua rưới khô ô … ng ? “. Đèo lồng cóc sau xe đạp điện, ai gọi là anh / chị nhanh gọn vào sân, nhà bếp làm luôn không lấy phí. Mẹ tôi đã từng nhiều lần gọi họ vào để làm ruốc cóc cho em trai tôi ( lúc nhỏ, nó hơi còi ) .
Ngày nay, nhan nhản những loại cốm, thuốc bổ, thuốc kích thích ăn. Kinh nghiệm dân gian ruốc cóc chẳng còn thiêng. Rồi tiếng rao ” Ai hoạn lợn, thiến gà, mèo chó ” cũng mất tăm. Đất đai eo hẹp, mức sống khá lên, ở thành phố, còn ai nuôi lợn lấy nước gạo nữa đâu. Cả năm, mới thấy tổ dân phố nhắc nhà ai có chó, mèo thì đem đi tiêm hoặc dịch vụ tiêm tại nhà, lâu lắm mới có tiếng rao mua / đổi công trái .
Tiếng rao còn là sự giao lưu, liên cảm, cộng cảm giữa con người với nhau. Đêm lạnh, tiếng rao xôi nóng, bánh mì, bánh khúc làm ấm lòng, dù chẳng cần phải ăn mới cảm được sự chịu khó khuya sớm của người bán rong còn như thứ đồng hồ đeo tay bền chắc, chạy đều đặn, siêng năng bằng thói hay lam hay làm, năng nhặt chặt bị, lấy công làm lãi .
Ngô, khoai, sắn luộc may còn hàng rong trên phố cổ, quẩy gánh cứ đi rồi khách mua gọi, chẳng cần lời rao ; mấy chị bán trứng vịt lộn, cắt tỉa móng tay – chân cũng thế .
Giữa Hè nắng thấy một chị ngoài tuổi 40, chở giường gấp sau xe đạp điện, rao : ” Ai mua giường gấp đê “, lại chỉ mong những chị bán chiếu cói quay trở lại. Đến mùa cưới, tôi lại ước được nghe tiếng rao bán chiếu. Người bán chiếu Tỉnh Thái Bình đi đâu mà nay toàn thấy chiếu Trung Quốc, chiếu nilon, chiếu xốp. Lại nhớ những bông hoa, đôi chim, chữ Hỷ, chữ ” Trăm năm niềm hạnh phúc ” như chiếu cói một thời .
Chẳng riêng tiết Đoan Ngọ ( Giết sâu bọ, 5/5 AL ), cô hàng rượu nếp đạp xe uể oải rao, chợt gặp vào một ngày Đông, mà nhớ có lần đã say vì ăn rượu nếp. Càng cuối năm, những tiếng rao truyền thống cuội nguồn như được sống lại. Tết là gì khi không phải là sự sum vầy, trở lại. Đâu phải là chỉ trở về bằng sự di dời của người xa quê, xa nhà mà là sự quay trở lại của hoài niệm kí ức .
Mùa Đông giờ đây, ai mang chăn bông ra hong nắng, đập chăn. Thèm quá tiếng rao : ” Bật bông nào ! “. Người bán lá dong không vào những ngõ nữa, họ bày ở chợ, trên tấm nilon, vải nhựa. Hàng chổi, phất trần, mành cọ, rèm che cửa trang trí lượn nhiều vào cữ Chạp. Người bán chổi đông, đa phần chổi cước, nilon, nhựa tái chế ; ít dần chổi đót, chổi tre, muốn mua chổi lúa, rổ, rá, rế thì phải ra chợ Bưởi .
Vẫn còn gặp những cây phất trần dài kết bằng lông gà, nhuộm vàng nâu. Tiếng rao ” Mài dao kéo đi ! ” của ông già bền chắc cả chục mùa mưa, nắng, túc tắc làm không hết việc. Không lo, có thêm một người trẻ tuổi bổ trợ lực lượng : ” Ai mài dao, kéo nào “, tha hồ chạy ” sô “, cứ gọi là tíu tít khách. Ít ai mài một con dao, sẽ mang ra cả mớ dao trong giá / giàn cắm .
Mài sẵn để sẵn sàng chuẩn bị những ngày dao phát huy hiệu suất, bận rộn nhất năm. ” Ai đánh véc ni giường tủ, bàn và ghế, đánh bóng đồ thờ không ? ” – giọng nam cứng ngắc rao như tín hiệu lệnh của một nghi thức bắt buộc trong tâm linh chăm nom người đã khuất, mới thấy cái Tết truyền thống trang nghiêm nhường nào .
Cảm ơn những ai vẫn làm nghề này, đấy không chỉ là mưu sinh, mà họ giữ nghề, giữ lửa, tập tục ngàn đời, mang theo hồn Tết. Có nhà bán rong nối nghiệp mấy đời. Sẵn sàng mang gạo tận nhà từ quầy, đại lí, không còn cô hàng gạo rong, tiếng rao gạo nếp lúc gần Tết. Nghề hàng xáo thời nay chẳng khó khăn vất vả như bà Tú Xương hơn trăm năm trước. Mua gạo hiện thời cũng phải sành mới chọn được thứ ngọc thực lành. ” Ai bán giường, gỗ, tủ, bàn và ghế gỗ cũ đây ” .
Lời rao nhắc shopping tiện lợi, vệ sinh, đánh bóng đồ thiết yếu, tự dưng thấy gắn bó thêm, thương mến vật phẩm sử dụng hàng ngày. Đâu phải cứ cũ là vứt bỏ. Với tôi, vật phẩm có linh hồn .
Tiếng mà tôi hằng chờ nghe và đợi đến để mua, là tiếng rao bán muối sau lúc giao thừa và sáng mồng Một Tết. Dù đắt hơn nhưng ” đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi “, ” đầu năm Thanh minh, cuối năm tạ mộ ” là lệ ngàn năm. Muối đem lại như mong muốn, như đầu năm những bà, những mẹ đi lễ chùa mang về túi lộc gói muối, bao diêm .
Tiếng rao ai mua muối đầu năm, gói muối bọc thêm giấy màu đỏ điệu đàng đón trao tay ấm áp mỹ tục. Người bán người mua đều vui vẻ. Cảm ơn những cô hàng muối chịu khó bán hàng đêm 30, tinh mơ mồng Một, còn giữ giùm ta hơi Tết, phong vị Tết trước bao nhiêu thứ xói mòn, đổi khác, mất mát.
Thời bao cấp khốn khó, tiếng rao lại nhiều, phong phú hơn giờ đây. Ngày nay, sự độc lạ về đời sống giữa nông thôn và thành thị còn lộ qua chủng loại hàng rao, hàng rong. Tiếng rao như một thứ nhạc hiệu báo thời hạn, thậm chí còn mùa nào thức ấy, mang tín hiệu mùa. Tiếng rao báo kì, tiết. Tiếng rao nhắc người đừng quên nhiều thứ, không riêng gì là thứ được rao .
Tiếng rao tiềm ẩn những phận người. Đấy là tiếng đời .
Tiếng rao là sức sống .
Source: https://thucanh.vn
Category: Chó cảnh