Hẳn là có rất nhiều người mê vẻ đẹp của loài chó dingo Đông Dương. Một loại chó bản địa đẹp hoang dại rất giống với loài chó sói. Tại Việt Nam, loài chó dingo Đông Dương này thường được nhiều người săn lùng. Vốn dĩ hiện nay loài chó này không còn nhiều hoặc là nguồn gen có thể bị lai tạp nhiều, cũng không còn giữu được độ thuần chủng vốn có của loài chó Dingo Đông Dương này. Hôm nay chúng ta cùng tham khảo về những tiêu chuẩn chó dingo Đông Dương để có cái nhìn tổng thể một con chó thế nào là đẹp và đạt tiêu chuẩn.
>>> Chó Phú Quốc
>>> Chó H Mông Cộc Đuôi
>>> Chó Bắc Hà Xù
Giới thiệu qua về chó Dingo Đông Dương
Hiện nay đàn chó địa phương với số lượng ít, ở mức độ đáng kể đã bị tại tạp khác giống. Chủ yếu, những con chó thuộc giống này được tìm thấy ở hạ lưu sông Mã ( tỉnh Thanh Hoá ) .
Những đặc điểm hình dáng bên ngoài và thể trạng của chó Dingo Đông Dương.
Chó Dingo Đông Dương dạng sói còn sót lại ở Việt Nam có tầm vóc trung bình và hình thể mặt cắt ngang hơi dài (tỷ lệ giữa chiều cao và chiều dài). Chúng có cấu trúc cơ thể nhẹ nhàng, rắn chắc và kết cấu đầu, mình, các chi cân đối một cách tự nhiên, không có xu hướng phát triển thô kệch hoặc thể tạng béo phệ. ở trạng thái nghỉ ngơi chúng có khả năng hoàn toàn thư giãn. Nhưng thông thường chúng rất hiếu động và liên tục thay đổi tư thế, đến mức phần cổ, mông và tứ chi không lúc nào giữ nguyên một tư thế, làm cho việc đánh giá bằng mắt gặp nhiều khó khăn. ở bất kỳ trạng thái nào chúng cũng thể hiện khả năng giữ thăng bằng rất tốt và di chuyển một cách hợp lý. Thoạt nhìn, những đại diện điển hình của giống chó này hoàn toàn giống với loài sói về hình dáng bên ngoài, cũng như cách thức đi và chạy.
Nhìn chung, cũng như loài sói, giống chó này thuộc loại chân cao, đầu to so với kích thước mình, các chi hơi dài và đầu có vẻ to hơn so với thực tế.
Sự khác biệt giới tính thể hiện rõ. To lớn và mạnh mẽ hơn con cái, con đực có đầu to hơn- đặc điểm điển hình về giới.
Tiêu chuẩn chó Dingo Đông dương với Kích thước và những chỉ số cơ bản
- Chiều cao ở vai (cao trước): từ 50cm (con cái) đến 60 cm (con đực).
- Trọng lượng: từ 16 kg (những con chó cái bé và nhẹ) đến 26 kg.
- Chiều cao ở mấu xương cùng (cao sau) tương đương với chiều cao ở vai.
- Tỷ lệ giữa chiều cao và chiều dài: 103- 108 (chó cái có hình thể dài hơn, chó đực cân đối hơn).
- Tỷ lệ giữa chu vi vòng cổ chân trước và chiều cao vai (tỷ lệ xương): 15,5- 18,5 (chu vi vòng cổ chân từ 8,5 đến 11 cm, tuỳ theo giới tính và thể tạng).
- Chỉ số cao chân: 52 – 55.
- Chỉ số dài đầu: gần 40.
Tiêu chuẩn chó Dingo Đông Dương về Thể lực và vận động
Chó Dingo Đông Dương dạng sói ở Việt Nam được xếp vào hạng quốc khuyển Việt Nam có cách thức vận động rất hiệu quả, uyển chuyển và không phí sức, không có biểu hiện thân mình lắc lư, xiêu đổ hay mất thăng bằng. Khi chạy bước dài, các chi tách khỏi mặt đất với độ cao nhỏ nhất, các bàn chân được đặt trên một đường thẳng. Khi chó phi, chạy, tốc độ cao, bước phi dài, không có cảm tưởng vội vã, hối hả. Cú nhảy vượt vật cản của chúng tỏ ra mềm mại, có tính toán và được thực hiện với lượng sức lực bỏ ra ít nhất.
Các con chó Dingo Đông Dương thuộc giống này sử dụng bàn chân rất tốt khi tiếp xúc với những đồ vật khác nhau, động tác của chúng chính xác, khéo léo. Khi vượt chướng ngại vật chúng thể hiện khả năng giữ thăng bằng rất tốt, không sợ độ cao, phối hợp động tác rất hoàn hảo.
Nhìn chung, chó Dingo Đông Dương dạng sói là mẫu hình của sự kết hợp hài hoà sức mạnh, khéo léo, uyển chuyển, nhanh nhẹn và dẻo dai. Chúng có khả năng chịu đựng thời tiết nóng bức, nhu cầu thức ăn và nước uống không nhiều.
Tiêu chuẩn chó Dingo Đông dương Tập tính và các giác quan
Chó dingo đông dương còn sót lại ở Việt Nam có sự phân loại rất khác nhau ở hệ thần kinh trung ương. Một số con khi tiếp xúc tỏ ra ghi ngại, tính hiền, số khác thì nhiệt tình và cũng có những con bình tĩnh. Tuy nhiên tất cả các con chó thuộc giống này không bị mất tập trung, có trí nhớ tốt, tốc độ phản ứng nhanh.
Việc dạy và huấn luyện những con chó này cần bắt đầu từ độ tuổi rất sớm.
Chó Dingo Đông Dương ở Việt Nam có đặc điểm là các cơ quan thị giác, thính giác và khứu giác phát triển rất tốt. Chúng có thể được sử dụng rất tốt cho công tác tìm kiếm, đặc biệt là truy vết. Những công việc này là sở trường lớn nhất của chúng.
Tiêu chuẩn chó Dingo Đông Dương về hình thể và thể chất
- Đầu to, khoảng cách giữa hai bên gò má lớn (khoảng cách này bằng 1/2 chiều độ dài đầu), phần hộp sọ nổi rõ, không có trường hợp nào tỏ ra thô kệch và nhẹ.
- Trán bằng phẳng hoặc hơi nhô, đường rãnh giữa trán chạy dài.
- Cơ hàm và thái dương lớn, phát triển mạnh.
- Phần gồ trên mắt lộ rõ.
- Mắt có kích thước trung bình, nằm xiên chéo, dạng hạnh nhân với màu đặc trưng của màng mống mắt: có những vòng tròn màu đen, một vòng trực tiếp bao quanh đồng tử (chính vì vậy rất khó phân biệt ranh giới giữa mống mắt và đồng tử), vòng đen thứ hai bao quanh phía ngoài mống mắt. ở khoảng giữa hai vòng tròn, mống mắt có màu sáng hơn, từ màu vàng đến màu xám.
- Mõm hình trụ, thẳng hoặc có phần bướu nơi chóp mũi. So với phần hộp sọ, mõm nhỏ, không dài lắm (bằng 45% độ dài của đầu) và không mỏng, hơi nhọn. Khi ta quan sát ở thiết diện ngang, đường sống mũi và trán song song với nhau. Phần chuyển tiếp từ trán xuống mõm kéo dài, thuôn đều tự nhiên. Khi chó nhìn thẳng mõm và tia nhìn hợp thành góc 30 0 .
- Tai đứng, chắc chắn, kích thước trung bình (chiều cao của vành tai tính theo đường trục giữa tương đương với chiều dài của mõm). Vành tai không dày, nơi rộng nhất bằng 1/4 chiều dài tính từ gốc tai. Vành tai thu hẹp dần lên phía trên tạo thành hình tam giác đều. Hai tai nằm xa nhau, rất linh hoạt. Trục giữa của vành tai hơi hướng sang hai bên, nhưng khi chó thể hiện sự tập trung chú ý, vành tai đứng thẳng, mặc dù gốc tai không xích lại gần nhau.
- Đầu chóp mũi không lớn, màu đen (ở những con thuộc thể biến dị khơromist – chóp mũi có màu nâu tím).
- Môi, mép khô, mỏng, không chảy xệ.
- Hàm dưới mạnh mẽ, kết hợp hài hoà về chiều dài và chiều ngang với hàm trên. Các răng đứng sát nhau, chắc chắn, kích thước răng không nhỏ. Hình dáng răng đầy đặn. Khi chó ngậm miệng, phần lớn hàm răng trên và dưới khép lại theo tư thế cắt kéo (hàng dưới thụt vào so với trên), nhưng không hiếm trường hợp hai hàng răng chồng khít lên nhau theo tư thế gọng kìm, hoặc hàm răng hàm trên thụt vào so với hàm dưới một ít. Trong bất kỳ trường hợp nào, các răng cửa hàm trên và răng cửa hàm dưới luôn luôn cọ sát vào nhau.
- Phần cổ linh hoạt, không dư thừa mỡ, nhiều cơ, không nặng nề, không có yếm bò.
- Phần mông nhiều cơ.
- Phần lưng mềm mại, nhiều cơ, nhưng không rộng. Phần võng lưng không sâu.
- Phần eo lưng thẳng hoặc hơi gồ, nhiều cơ và mềm mại. ở con cái phần này dài hơn rõ rệt so với con đực. Khi chó chạy theo kiểu phi nhẹ nhàng, phần eo lưng chỉ gập nhiều ở khớp thắt lưng- đốt cùng. Thắt lưng chỉ gập lại lớn nhất khi chó phi nhanh.
- Phần hông dài và rộng, được bao phủ bởi một lớp cơ dày. Xương chậu nằm ở tư thế nghiêng 350- 400. Mấu xương chậu nổi cao hơn xương sống, thông thường ẩn dưới lớp cơ, lớp mô dưới da, da và lông. Chỉ thấy mấu xương chậu ở những con chó gầy hoặc khi sờ nắn.
- Xương cùng chiếm khoảng 1/4 chiều dài hông và không gồ lên so với xương chậu.
- Đuôi chó không dài (chóp đuôi khi buông thõng còn cách khớp kheo 3- 4 cm, thường thẳng hoặc hơi cong, xung quanh được bao phủ một lớp lông mọc đều từ gốc đến chóp đuôi. Tuỳ theo tình trạng tâm lý của chó, đuôi có thể ở những tư thế rất khác nhau, cho đến tư thế dựng đứng, lúc này đuôi có thể hơi cong về phía trước hoặc sau. Mẫu đuôi điển hình nhất là hình thế thẳng (“poleno”), còn những con có đuôi hình kiếm đeo, lưỡi câu hoặc lưỡi liềm là không đặc trưng. Không thể hiện rõ đặc tính giống ở những dạng cộc đuôi hoặc đuôi quấn vòng.
- Khi quan sát chó từ phía trước, lồng ngực hẹp, còn khi quan sát từ trên xuống lồng ngực rộng. Chiều sâu lồng ngực ở những con phát triển tốt, mạnh mẽ có thể đạt tới ngang khớp khuỷu chân trước. Tuỳ theo tư thế của chó, thông thường mép dưới lồng ngực cao hơn khớp khuỷu chân trước từ 1- 4 cm.
- Xương sườn cụt phát triển tốt.
- Bụng thon dài rõ rệt.
- Chi trước dài, chắc, không to, các khớp không u phồng và duỗi, gập hài hoà. Khi chó đứng ở tư thế bình thường, quan sát từ phía trước thấy hai chi thẳng và lây đều (phần khớp không phình to). Đoạn từ khớp vai- bả vai (con ếch) đến bàn chân, hai chi song song và đứng gần nhau.
- Xương bả vai không dài, rất linh hoạt có thể dịch chuyển nhiều theo các hướng, về phía trước, phía sau, lên trên hoặc xuống dưới, có thể nghiêng với biên độ lớn và ít nhiều có thể xoay được. Khi con chó đứng ở tư thế bình thường, trục của xương bả vai tạo với đường nằm ngang một góc 600.
- Xương vai được bao phủ một lớp cơ chắc, dày nhưng không lộ bắp cơ. Xương vai dài. Khi chó đứng ở tư thế bình thường, đường thẳng lối mỏm cùng vai và điểm giữa khớp khuỷu chân trước tạo với đường nằm ngang một góc từ 70- 800.
- Khớp khuỷu chân trước gọn, hình dẹt. Khi quan sát từ bên sườn khớp này lớn. Góc cử động lớn nhất của khớp này là 1600.
- Cẳng chân trước thẳng, với lớp cơ chắc khoẻ, da mỏng và chắc.
- Khớp cổ chân và xương bàn chân gọn gàng, quan sát từ phía trước bàn chân tương đối rộng.
- Bàn chân thẳng, có độ dài trung bình, khi chó đứng ở tư thế đứng bình thường bàn chân tạo với mặt đất một góc 60- 700.
- Phần ngón chân ở chi trước và chi sau có hình ô-van. Các ngón dài và chụm. Móng chân có màu đen (ở các con khơromist – màu nâu).
- Chi sau dài và lộ rõ, nhưng không lộ rõ các điểm gấp của khớp. Quan sát từ phía sau, hai chân sau của chó thẳng và song song với nhau. Các khớp duỗi, gập tự nhiên. Tổng chiều dài chi sau (gồm đùi, gối, và gót chân) gần bằng 85% tổng chiều dài chi trước (gồm bả vai, vai, cẳng chân trước và bàn chân).
- Khi chó đứng và chạy thường, tại “điểm tới hạn” (lúc này bàn chân trụ nằm ngay dưới khớp đùi- chậu), góc gập của khớp kheo nhỏ hơn góc gập của khớp gối, còn đường thẳng tưởng định, kéo dài theo trục xương ống chày cắt qua xương sống có cơ hoành.
- Đùi nở, cơ to chắc khoẻ.
- Khớp gối không to.
- Gối có lớp cơ chắc, to, nhưng không lộ bắp cơ. Gân Asin (gót) khoẻ và lộ rõ dưới lớp da mỏng.
- Khớp kheo chân sau không to, khi quan sát từ bên sườn khớp này có bản rộng.
- Xương gót chân khoẻ, dài, hợp với xương bàn chân thành một đường thẳng.
- Gót chân dài, thẳng, chắc.
- Da mỏng, chắc, không có nếp gấp và những chỗ chảy xệ. ở con đực, khi chó trong tình trạng hưng phấn, dù ở tư thế nào lớp da bao qui đầu cũng bao phủ toàn bộ chiều dài dương vật.
- Lông dày đặc, sợi lông không dài, thẳng có lớp lông tơ mịn, phần bờm sau gáy có độ dài từ 2,5 đến 4cm, ở sườn từ 2 đến 3 cm. Trên đầu và chân, lông ngắn. Không có những đám lông tạo vẻ trang điểm.
- Màu lông chỉ có dạng đặc trưng như chó sói, không có đốm, vết, gam màu xám bạc (phần lớn các cá thể giống này) đối nghịch với gam màu xám trắng ở phía dưới “như phần sau của chiếc mặt lạ”, nếu gam màu xám vàng, thì phía dưới là màu nâu-vàng. Chấp nhận cả những cá thể thuộc dạng khơromist (những con có lông màu vàng-nâu với móng chân và chóp mũi màu nâu) và những con có sắc tố đen (những cá thể đen tuyền).
Những lỗi trong tiêu chuẩn chó Dingo Đông Dương
Những dị tật về hình thể
- Con đực không có 1 hoặc cả 2 tinh hoàn;
- Thiếu 4 răng trở lên từ khi sinh ra;
- Có màu lông, móng chân và chóp mũi khác với những gì đã mô tả trong các tiêu chuẩn, cũng như có đốm trắng hoặc khoang vết trên bộ lông;
- Màu mắt không giống với tiêu chuẩn;
- Bất kỳ kiểu lông nào không giống với tiêu chuẩn;
- Tai không chắc chắn, nửa đứng hoặc rủ (một bên hoặc cả hai bên), nếu không phải là do chấn thương;
- Đuôi có độ dài chạm tới kheo, ngắn quá hoặc cộc đuôi từ khi sinh ra;
- Chân thấp, bụng sát đất hoặc hình dáng cơ thể nặng nề;
- Những đặc điểm khác với thể tạng đã trình bày trong tiêu chuẩn chó Dingo Đông Dương.
Source: thucanh.vn
Category: Chó cảnh