Khả năng sinh trưởng và tỷ lệ sống của Trùn chỉ (Limnodrilus hoffmeisteri Claparede, 1862) trên các nền đáy khác nhau trong điều kiện phòng thí nghiệm – Tạp chí Thủy sản Việt Nam

Tóm tắt

Nghiên cứu này được triển khai với mục tiêu tìm ra nền đáy thích hợp cho việc nuôi sinh khối trùn chỉ ( L. hoffmeisteri ). Thí nghiệm được thực thi trong phòng thí nghiệm với 4 nghiệm thức khác nhau về nền đáy, một nghiệm thức đối chứng là bùn đáy, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Thành phần phối hợp là phân bò đã được ủ chế phẩm sinh học và cát mịn. Sau 15 ngày thí nghiệm, tỷ suất sống cũng như vận tốc sinh trưởng của trùn chỉ cao nhất ở nghiệm thức đối chứng ( tỷ suất sống 95,0 ± 1,9 %, sinh trưởng tuyệt đối 0,32 ± 0,09 mg / ngày, sinh trưởng tương đối 8,60 ± 1,56 % / ngày ), tiếp đến nền đáy phối hợp 75 % phân bò + 25 % cát mịn ( tỷ suất sống 87,6 ± 3,2 %, sinh trưởng tuyệt đối 0,31 ± 0,03 mg / ngày, sinh trưởng tương đối 8,58 ± 0,54 % / ngày ), không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nghiệm thức này ( P > 0,05 ) và tác dụng thấp nhất ở nghiệm thức phối hợp nền đáy 25 % phân bò + 75 % cát mịn ( tỷ suất sống 70,9 ± 6,3 %, sinh trưởng tuyệt đối 0,16 ± 0,03 mg / ngày, sinh trưởng tương đối 5,68 ± 0,74 % / ngày ) sai khác có ý nghĩa thống kê với những nghiệm thức còn lại P < 0,05. Như vậy, nên chọn chất nền là bùn hoặc hoàn toàn có thể chọn nền đáy phối hợp 75 % phân bò và 25 % cát mịn để nuôi trùn chỉ .

1. Giới thiệu

Với tầm quan trọng của trùn chỉ, trên quốc tế có khá nhiều đề tài điều tra và nghiên cứu về năng lực nuôi sinh khối đối tượng người dùng này. Tuy nhiên, những điều tra và nghiên cứu về trùn chỉ tập trung chuyên sâu hầu hết ở vùng ôn đới. Thông tin về nuôi sinh khối trùn chỉ ( L. hoffmeisteri ) chưa có ở Nước Ta. Mặc dù có tài liệu về đặc thù sinh học và nuôi sinh khối trùn chỉ nhưng là loài Tubifex tubifex ( Đinh Thế Nhân, 1999 ). Nghiên cứu này nhằm mục đích báo cáo giải trình về năng lực tăng trưởng của trùn chỉ ở nền đáy khác nhau trong điều kiện kèm theo phòng thí nghiệm .

2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu

Vật liệu nghiên cứu

Thí nghiệm được thực thi điều tra và nghiên cứu từ tháng 1/2013 – 3/3013, tại phòng thí nghiệm Sinh lý – Sinh thái, Trường Đại học Nha Trang – Khánh Hòa. Trùn chỉ ( L.hoffmeisteri ) tinh lọc từ rãnh nước thải ở Xã Vĩnh Phương – TP Nha Trang – Khánh Hòa, được nuôi giữ giống tại phòng thí và được nhân gống trước khi triển khai thí nghiệm 2 tháng để có đủ số lượng trùn chỉ như mong ước .
Mục đích của thí nghiệm là xác lập nền đáy tối ưu cho L.hoffmeisteri. Nền đáy được phối hợp giữa phân bò đã qua ủ với với chế phẩm sinh học Balasa – N01 trước khi sử dụng 1 tháng và cát mịn với những tỷ suất khác nhau .
Phân bò được lấy mẫu đem đi nghiên cứu và phân tích vi sinh và trứng giun sán trước khi sử dụng. Định tích những loại vi sinh vật phổ cập trong phân ( Coliforms phân, Escherichia coli, Streptococcus phân, Salmonella, Vi khuẩn Vibriospp ) bằng cách cấy mẫu trên những môi trường tự nhiên đặc trưng. Phân tích định tính trứng giun sán theo giải pháp phù nổi và gạn rửa sa lắng ; định lượng bằng cách đếm trứng trên buồng đếm Mc Master .
Bùn đáy sử dụng trong nghiệm thức đối chứng được lấy từ khu vực đã thu trùn chỉ. Bùn đáy được ray qua vợt có mắt lưới 2 a = 0,5 mm để vô hiệu hàng loạt những loài sinh vật không tương quan sau đó đem tiệt trùng để vô hiệu hàng loạt kén giun ít tơ còn sót lại .

Bố trí thí nghiệm

Điều kiện thí nghiệm
Thí nghiệm để nhìn nhận năng lực sinh trưởng và ngày càng tăng tỷ lệ của trùn chỉ L.hoffmeisteri với mức phối hợp nền đáy khác nhau chúng tôi triển khai nuôi trùn chỉ với tỷ lệ 1 con / cm2 trong khay nhựa có diện tích quy hoạnh 150 cm2 ( 10 x 15 cm ). Khay nuôi trùn chỉ được cấp 2 cm nền đáy. Sau khi thả trùn, khay nuôi được đặt dưới mạng lưới hệ thống nước chảy nhỏ giọt trong phòng thí nghiệm. Nhiệt độ và ánh sáng tự nhiên .
Định kỳ 3 ngày cho trùn chỉ ăn một lần, thức ăn là cám gạo, với liều lượng cho ăn bằng 15 % khối lượng khung hình / 1 ngày trước khi cho ăn thức ăn được ngâm trong nước 1 ngày trong điều kiện kèm theo nhiệt độ phòng. Khi cho ăn tắt mạng lưới hệ thống nước chảy nhỏ giọt, cấp thức ăn vào khay nuôi sau 3 – 4 tiếng để hàng loạt thức ăn lắng xuống đáy mới cho nước chảy trở lại .

Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm gồm 5 nghiệm thức được sắp xếp trọn vẹn ngẫu nhiên, mỗi nghiệm thức được lặp lại 5 lần. Các nghiệm thức được sắp xếp như sau : NT1 : nền đáy 100 % phân bò ; NT2 : nền đáy 75 % phân bò + 25 % cát mịn ; NT3 : nền đáy 50 % phân bò + 50 % cát mịn ; NT4 : nền đáy 25 % phân bò + 75 % cát mịn ; NT5 : nền đáy 100 % bùn đáy ( nghiệm thức đối chứng )
Thí nghiệm được thực thi trong khoảng chừng thời hạn là 15 ngày, kết thúc đợt thí nghiệm thực thi thu hàng loạt trùn chỉ, đếm số lượng xác lập tỷ suất sống, cân khối lượng xác lập tăng trưởng tuyệt đối và tăng trưởng tương đối .

 Phương pháp thu thập, tính toán và xử lý số liệu

Chỉ tiêu nhìn nhận
Khối lượng, tỷ lệ của quần thể trùn chỉ được cân và đếm ở cuối mỗi chu kỳ luân hồi nuôi. Cuối chu kỳ luân hồi nuôi, thu hàng loạt nền đáy rây qua vợt có mắt lưới 2 a = 0,5 mm, sau đó đổ ra khay 600 cm, dùng ống pipet thu và đếm số lượng trùn, tiếp đến vô hiệu hàng loạt chất bẩn bám vào trùn chỉ rồi đem cân khối lượng bằng cân điện tử .
Xử lý số liệu
Số liệu đã tích lũy được giải quyết và xử lý sơ bộ với chương trình Excel và giải quyết và xử lý thống kê bằng ứng dụng SPSS 18, so sánh sự độc lạ giữa những nghiệm thức ( ANOVA ) sau đó sử dụng phép thử LSD để kiểm chứng .

3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Thành phần vi sinh vật và giun sán của phân bò trước và sau khi ủ vi sinh

Thành phần loài và tỷ lệ vi sinh vật có trong phân trước và sau khi ủ
Kết quả nghiên cứu và phân tích ở bảng 2 cho thấy phân bò trước khu ủ nhiễm 4 loài vi trùng khác nhau E. coli, Vibrio spp., Streptococcus phân, Coliforms phân. Trong đó Vibrio. spp ở mức độ 107 CFU / g được xem là có cường độ nhiễm cao nhất, Coliforms phân có tỷ lệ tế bào là 106 CFU / g, Streptococcus phân, E. coli có cường độ nhiễm thấp nhất với 104 CFU / g .

Sau khi ủ, thành phần loài và tỷ lệ vi sinh vật trong phân bò đều giảm rõ dệt. Mẫu đem đi nghiên cứu và phân tích dương thế với một loài vi trùng duy nhất đó là E. coli. Mật độ của vi trùng này trong mẫu sau khi ủ với chế phẩm sinh học là 102 CFU / g thấp hơn nhiều so với trước khi ủ ( 104 CFU / g ) .

Thành phần loài và mật độ trứng giun sán có trong phân trước và sau  khi ủ

Trong phân bò tươi chưa qua giải quyết và xử lý không phát hiện thấy trứng sán. Trái lại, Phân bò tươi nhiễm trứng giun xoắn đường tiêu hóa với cường độ nhiễm cao ( + + + ). Kết quả đếm trứng giun xoắn bằng buồng đếm Mc Master cho thấy, tỷ lệ trứng / gam phân là 567 ± 132. Sau thời hạn 1 tháng ủ với chế phẩm sinh học Balasa – N01, mẫu phân bò đem xét nghiệm cho hiệu quả âm tính so với trứng giun xoắn. Điều này cho thấy, hiệu suất cao về tàn phá mầm bệnh do kí sinh trùng có trong phân gây ra của giải pháp ủ phân với chế phẩm sinh học đạt tác dụng tốt bảng 3 .

Tăng trưởng và Tỷ lệ sống của quần thể trùn chỉ

3.4.1 Sinh trưởng
Sau 15 ngày nuôi, tăng trưởng của trùn chỉ bị tác động ảnh hưởng đáng kể bởi nền đáy nuôi. Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối cũng như tăng trưởng tương đối của nghiệm thức đối chứng ( NT5 ) là lớn nhất ( 0,33 ± 0,09 mg / ngày, 8,60 ± 1,56 % / ngày ), tiếp đến là nghiệm thức phối hợp 75 % phân bò và 25 % cát mịn ( NT2 ) và phối hợp 50 % phân bò và 50 % cát mịn ( NT3 ), thấp nhất là ở nghiệm thức phối hợp 25 % phân bò 75 % cát mịn ( NT 4 ) ( 0,16 ± 0,03 mg / ngày, 5,68 ± 0,74 % / ngày ). Sự sai khác về tốt độ tăng trưởng tương đối và tuyệt đối của trùn chỉ giữa nhóm cao nhất ( TN5, NT2, NT3 ) và nhóm thấp nhất ( NT4, NT1 ) có ý nghĩa thống kê ( P < 0,05 ). Tuy nhiên, sự sai khác về tăng trưởng của trùn chỉ giữa nghiệm thức đối chứng với nghiệm thức thứ 2 và thứ 3 không có ý nghĩa thống kê ( P > 0,05 ). Điều này cho thấy hoàn toàn có thể chọn nền đáy là bùn hoặc nền đáy có tỷ suất phối hợp phân bò từ 50 % đến 75 % với cát mịn để nuôi trùn chỉ. Tuy nhiên để trùn chỉ thích ứng nhanh và hoàn toàn có thể tham gia sinh sản ngay trong thời hạn nuôi ngắn nhất nên chọn nền đáy nuôi là đáy bùn. Kết quả về tăng trưởng của trùn chỉ ở nền đáy phối hợp giữ phân bò và cát mịn ít có sự độc lạ khi tăng hàm lượng phân bò từ 25 % đến 75 %. Trái ngược với hiệu quả điều tra và nghiên cứu của M Peter Marian ( 1984 ) khi nuôi sinh khối loài Tubifex tubifex, vận tốc tăng trưởng đã gần như gấp đôi và sau đó tăng gấp đôi, khi bổ trợ những phân bò tăng từ 25 đến 75 %. Sự độc lạ này hoàn toàn có thể do M Peter Marian ( 1984 ) nuôi sinh khối bằng phân bò tươi, hàm lượng dinh dưỡng cao hơn phân bò đã ủ sau một tháng. Thêm vào đó, phân bò tươi có độ mịn hơn phân bò khô, thuận tiện cho việc lấy thức ăn và chui rúc của trùn chỉ .

3.4.2 Tỷ lệ sống
Trong thời hạn thí nghiệm 15 ngày, tỷ suất sống của L. hoffmeisteri ở những nền đáy khác nhau giao động từ 74,4 đến 95,0 %. Tỷ lệ sống của trùn chỉ cao nhất ở nghiệm thức đối chứng ( 95,0 ± 1,9 % ), thấp nhất ở nghiệm thức phối hợp 75 % cát mịn với 25 % phân bò 70,9 ± 6,3 %, tiếp đến là nghiệm thức có 100 % phân bò làm nền đáy ( 74,4 ± 5,1 ) sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ( P < 0,05 ). Nghiệm thức phối hợp 50 % phân bò với 50 % cát mịn và 75 % phân bò với 25 % cát mịn đều có tỷ suất sống trên trung bình 80 % tương ứng là 83,9 ± 1,7 % và 87,6 ± 3,2 %, sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê ( P > 0,05 ). Kết quả về tỷ suất sống của thí nghiệm cao hơn so với điều tra và nghiên cứu của M Peter Marian ( 1984 ) về tỷ suất sống của trùn chỉ loài ( Tubifex tubifex ). Tỷ lệ sống của T. tubifex ở những nền đáy khác nhau giao động từ 70 đến 80 % ( M Peter Marian, 1984 )

Kết thúc 15 ngày thí nghiệm, ở những nghiệm thức có nền đáy là phân bò hoặc phối hợp giữa phân bò và cát mịn chưa thấy Open trùn chỉ con và kén trùn chỉ. Ngược lại, khi thu mẫu ở nghiệm đối chứng chúng tôi đã phát hiện trùn chỉ con. Trùn con có kích cỡ nhỏ, khung hình có màu hồng nhạt. Đặc biệt, trong những khay đối chứng đã Open kén. Điều này chứng tỏ sau thời hạn thích ứng với môi trường tự nhiên nuôi tự tạo trùn chỉ đã tham gia sinh sản vô tính 1 số ít con thành thục sinh dục đã tham gia sinh sản hữu tính .
Trùn chỉ hoàn toàn có thể sống trong nền đáy phối hợp giữa phân bò và cát mịn ( tỷ suất sống > 70 % ). Tuy nhiên, tỷ suất sống của trùn chỉ ở nền đáy phối hợp giữa phân bò và cát mịn vẫn thấp hơn nền đáy đối chứng ( đáy bùn ). Điều độc lạ nữa, so với nền đáy mới trọn vẹn trùn chỉ phải mất thời hạn thích nghi, chưa thể tham gia sinh sản ngay trong thời hạn nuôi 15 ngày .

4. Kết luận và đề xuất ý kiến

4. 1 Kết luận

– Phân bò ủ yếm khí với chế phẩm sinh học có đổi khác rõ về màu, mùi theo hướng tích cực, giảm số lượng cũng như tỷ lệ vi sinh vật, trứng giun sán, giảm ô nhiễm thiên nhiên và môi trường. Sau khi ủ phân bò không bị nhiễm trứng giun xoắn đường ruột, sán, chỉ nhiễm vi trùng E. coli với tỷ lệ 102 CFU / g, hàm lượng Protein 6,61 %, Độ ẩm 7,2 %, Tro 5,6 %, Canxi 98,7 % và Photpho 69,7 % .
– Tốc độ sinh trưởng tương đối và tuyệt đối của trùn chỉ ở nghiệm thức đối chứng cao nhất ( 0,32 ± 0,09 mg / ngày, 8,60 ± 1,56 % / ngày ), nhưng sự độc lạ này không có ý nghĩa thống kê so với vận tốc sinh trưởng của trùn chỉ ở nghiệm thức phối hợp 75 %, 50 % phân bò và 25 %, 50 % cát mịn tương ứng ( P > 0.05 ) .
– Tỷ lệ sống của trùn chỉ từ 74,4 đến 95,0 %, cao nhất ở nghiệm thức đối chứng ( 95,0 ± 1,9 % ) và thấp nhất ở nghiệm thức có mức phối hợp phân bò 25 % và cát mịn 75 % ( 70,9 ± 6,3 % ). Duy nhất ở nghiệm thức đối trứng có sự Open của trùn chỉ con và kén trùn chỉ .

4.2 Đề  xuất

– Trùn chỉ sinh trưởng và sinh sản tốt ở nền đáy bùn tuy nhiên trong nuôi tự tạo việc phân phối 100 % đáy bùn sẽ gặp nhiều khó khăn vất vả. Do đó cần liên tục điều tra và nghiên cứu mức phối hợp giữa bùn và cát mịn để tìm ra nền đáy nuôi thích hợp nhất .

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giere, O. and Pfannkuche, O. 1982. Biology and ecology of marine oligochaete, a review. In : M. Barnes ( ed. ), Oceanogr. Mar. Biol. Aberdeen University Press, pp 173 – 308 .

2. Phillips, G.R. and Buhler, D.R. 1979. Influences of dieldrin on the growth and body composition of fingerling of rainbow trout (Salmo gairdneri) fed Oregon moist pellets or Tubificid worms (Tubifex sp.). J. Fish. Res., Board Canada, 36: 77-80.

3. Marian. M. P, T.J. Pandian, 1984. Culture and harvesting techniques for tubifex tubifex, Aquaculture, 42, 303 – 315 .
4. Wilmoth, J. H. 1967. Biology of Invertebrate. Prenticehall, Inc. Englewood Cliffs. New Yersey
5. Đinh Thế Nhân, 1999. Nghiên cứu đặc thù sinh học và nuôi trùn chỉ ( Tubifex tubifex ). Tạp chí Nông Lâm Nghiệp, số 11/1999, trang 55-58

Rate this post
Banner-backlink-danaseo

Bài viết liên quan