Phân thứ lớp Cá xương thật – Wikipedia tiếng Việt

Banner-backlink-danaseo

Phân thứ lớp Cá xương thật (Teleostei) là một trong ba nhóm cá thuộc lớp Cá vây tia (Actinopterygii). Nhóm này hình thành từ đầu kỷ Tam điệp,[1] và bao hàm 20.000 -30.000 loài cá xếp trong khoảng 40 bộ, bằng với tất cả số loài của các nhóm động vật có xương sống khác cộng lại;[3][4] như vậy phần lớn các loài cá tồn tại hiện nay đều thuộc nhóm này.[5] Hai nhóm cá vây tia khác là phân thứ lớp Cá toàn xương (Holostei) và phân lớp Cá sụn hóa xương (Chondrostei) có thể là các nhóm cận ngành.[6]

Các loài Cá xương thật có hàm trên và mảnh trước hàm hoạt động được và có cấu trúc đổi khác tương ứng với cấu trúc của mạng lưới hệ thống cơ hàm. Sự biến hóa này giúp cho chúng hoàn toàn có thể đưa quai hàm ra phía trước miệng. [ 6 ] [ 7 ] Vây đuôi của cá có dạng đồng hình, tức là cả thùy trên và thùy dưới đều phù hợp và size, hình dạng giống nhau. Cột sống cá kết thúc tại phần gốc của vây đuôi, đặc thù này giúp phân biệt phân thứ lớp Cá xương thật với những nhóm cá khác có cột sống lê dài đến tận thùy trên của vây đuôi. [ 6 ]Là một nhóm loài lớn, những loài Cá xương thật có đặc thù hình thái rất phong phú, từ loài cá tuế chỉ dài hơn 7 mm cho đến loài cá maclin dài hơn 3,5 mét hay cá thái dương nặng đến hơn 900 kg. Sự phong phú lớn này khiến việc định nghĩa nhóm Cá xương thật trải qua hình dáng và cấu trúc không phải là điều thuận tiện. [ 4 ]

Sinh thái và hành vi[sửa|sửa mã nguồn]

Các loài Cá xương thật có mặt ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, từ môi trường nước ngọt đến cả nước mặn, bao hàm các vùng nước triều, vùng duyên hải, thềm lục địa, biển khơi và vùng biển thẳm,[8] từ các vùng biển băng giá ở hai cực Trái Đất đến các suối nước ấm có nhiệt độ lên đến 38 độ bách phân. Tuy nhiên, mỗi loài Cá xương thật thường có xu hướng sống giới hạn trong một loại môi trường nào đó trong một giai đoạn sống nhất định, và các môi trường sống khác nhau thường có sự hiện diện của những loài cá có khác biệt lớn về vòng đời, sinh sản, hành vi, hình dáng.[4]

Quy mô lớn của phân thứ lớp Cá xương thật cũng dẫn đến sự đa dạng trong tập tính sinh sản. Phần lớn một lứa đẻ của chúng “sản xuất” ra rất nhiều trứng, phân tán ra khắp nơi nhưng chỉ có một số ít sống sót đến lúc trưởng thành. Trong đó cá nước ngọt thường đẻ trứng chìm xuống đáy nước, còn cá biển đẻ trứng trôi nổi trong nước. Một số khác ấp trứng trong miệng, một số canh chừng trứng và cá con suốt một thời gian dài sau khi đẻ. Một số loài cá là lưỡng tính, có khả năng tự thụ tinh, một số loài là cá đực trong một giai đoạn sống, nhưng trở thành cá cái trong giai đoạn khác. Ít nhất 12 loài có khả năng đẻ trứng thai, và nhiều loài khác có đặc tính sinh sản chưa được rõ ràng.[4]

Số lượng đa dạng và phong phú của nhiều loài Cá xương thật size lớn, tỉ như cá hồi và cá bơn lưỡi ngựa, giúp cho nhóm cá này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người với tư cách là một nguồn thực phẩm đa phần cũng như là điều kiện kèm theo cho nghành câu cá vui chơi tăng trưởng. Ngoài ra, sự phong phú của nhóm Cá xương thật xét về cả đặc thù hình thái, cấu trúc khung hình, tập tính thiên nhiên và môi trường sống – với mức độ lớn hơn toàn bộ những loài thú, chim, bò sát và lưỡng cư cộng lại – khiến chúng chiếm một vị trí chủ yếu trong ngành nuôi cá cảnh, một ngành công nghiệp với lệch giá lên đến hàng triệu Mỹ kim. [ 4 ]

Phân loại và tiến hóa[sửa|sửa mã nguồn]

Hóa thạch sớm nhất của phân thứ lớp Cá xương thật có niên đại từ kỷ Tam điệp sớm. Đến kỷ Crêta chúng đã thống trị những thiên nhiên và môi trường sống nước ngọt lẫn nước mặn trên Trái Đất. Một số nhóm Cá xương thật nguyên thủy nhất hoàn toàn có thể kể đến gồm có những bộ Pholidophoriformes, Leptolepidiformes, Tselfatiformes và Osteoglossomorpha. [ 8 ] Theo list dưới đây, phân thứ lớp này bao hàm 12 siêu bộ, tuy nhiên thông tin này hoàn toàn có thể đổi khác vì quy trình điều tra và nghiên cứu và phân loài những loài cá này vẫn còn tiếp nối .

Rate this post

Bài viết liên quan