Tổng quan về chấn thương bụng

Hầu hết những bệnh nhân bị đa chấn thương và chấn thương nặng và / hoặc rối loạn cảm xúc thì cần phải thực thi những cận lâm sàng sau khi khám lâm sàng. Thông thường, bác sĩ lâm sàng sử dụng siêu âm hoặc CT, đôi lúc dùng cả hai .

Siêu âm ([FAST]) có thể được thực hiện trong lần đánh giá ban đầu mà không cần chuyển bệnh nhân đến khoa chẩn đoán hình ảnh. FAST cung cấp hình ảnh màng ngoài tim, hạ sườn hai bên, khung chậu; mục đích chính là tìm dịch màng ngoài tim bất thường hoặc dịch tự do trong ổ bụng. FAST mở rộng (E-FAST) cung cấp thêm hình ảnh của ngực nhằm phát hiện tràn khí màng phổi Tràn khí màng phổi Tràn khí màng phổi là khí trong khoang màng phổi gây xẹp một phần hoặc toàn bộ phổi. tràn khí màng phổi có thể xảy ra tự phát hoặc do chấn thương hoặc thủ thuật y tế. Chẩn đoán dựa trên các… đọc thêm Tràn khí màng phổi . Siêu âm là một phương pháp không tiếp xúc tia bức xạ. Nó cũng là một phương pháp nhạy giúp phát hiện một lượng lớn dịch trong ổ bụng nhưng không xác định được quá chính xác tạng nào bị tổn thương, đồng thời khó phát hiện thủng tạng rỗng, và không dễ để đánh giá ổ bụng ở những bệnh nhân béo phì hoặc bệnh nhân có tràn khí dưới da (ví dụ do tràn khí màng phổi ).

CT thường được thực hiện với chất cản quang đường tĩnh mạch chứ không phải đường miệng; phương pháp này rất nhạy để phát hiện dịch tự do và tổn thương tạng đặc, nhưng lại kém hơn để đánh giá với các lỗ thủng nhỏ (mặc dù tốt hơn so với siêu âm). Ngoài ra, CT có thể đồng thời phát hiện tổn thương xương cột sống hoặc xương chậu. Tuy nhiên, CT khiến các bệnh nhân bị nhiễm xạ, điều này cần được cân nhắc ở trẻ em, những bệnh nhân có thể cần chụp lại (ví dụ những bệnh nhân ổn định với một lượng dịch nhỏ) và các bệnh nhân cần vận chuyển ra khỏi khu vực hồi sức.

Việc lựa chọn giữa siêu âm và CT dựa trên thực trạng bệnh nhân. Nếu bệnh nhân cần CT để nhìn nhận vùng khung hình khác ( ví dụ cột sống cổ, khung chậu ), CT có lẽ rằng là lựa chọn hài hòa và hợp lý để nhìn nhận vùng bụng. Một số bác sĩ lâm sàng triển khai FAST trong quy trình tiến độ hồi sức và đẩy thẳng nhà mổ nếu thấy một lượng lớn dịch tự do ổ bụng ( ở bệnh nhân tụt huyết áp ). Nếu tác dụng của FAST âm tính hoặc dương thế yếu, nếu vẫn cảm thấy hoài nghi, bác sĩ lâm sàng sẽ cho thực thi CT sau khi thực trạng bệnh nhân không thay đổi. Các yếu tố cần hoài nghi gồm có đau bụng tăng hoặc dự kiến không có năng lực theo dõi lâm sàng của bệnh nhân ( ví dụ như bệnh nhân cần phải dùng giảm đau hoặc sẽ trải qua những cuộc phẫu thuật lê dài ) .

Trong chọc rửa ổ bụng chẩn đoán (DPL), một catheter được đặt qua thành bụng vị trí gần rốn vào khung chậu / ổ bụng. Hút ra máu được xem là dấu hiệu chắc chắn cho chảy máu ổ bụng. Nếu không hút ra máu, cho 1 L dịch tinh thể chảy vào và để dịch chảy trở lại ra ngoài. xết nghiệm thấy > 100.000 HC/ mL dịch chảy ra là rất nhạy để đánh giá có tổn thương ổ bụng. Tuy nhiên, DPL hầu như đã được thay thế bằng đánh giá FAST và CT. DPL có độ đặc hiệu thấp, phát hiện nhiều tổn thương không cần đến phẫu thuật và do đó dẫn đến tỷ lệ mở bụng có kết quả âm tính cao. DPL cũng bỏ qua các thương tổn sau phúc mạc. DPL có thể hữu ích trong các tình huống triệu chứng lâm sàng không rõ ràng như khi có dịch tự do khung chậu nhưng không có tổn thương tạng hoặc bệnh nhân hạ huyết áp nhưng kết quả đánh giá FAST không rõ ràng.

Rate this post
Banner-backlink-danaseo

Bài viết liên quan