Lửng chó Nhật Bản – Wikipedia tiếng Việt

Lửng chó Nhật Bản (danh pháp hai phần: Nyctereutes viverrinus),[1] còn được gọi là tanuki (狸 (Li), tanuki?), là một loài thuộc họ Chó đặc hữu của Nhật Bản. Đây là một trong hai loài thuộc chi Nyctereutes, cùng với loài lửng chó (N. procyonoides), mà trước đây chúng được xem là một phân loài bên trong.[2]

Tanuki nổi bật trong truyền thuyết và tục ngữ của Nhật Bản,không phải lúc nào chúng cũng ưu tú hơn tất cả các loài vật khác cả. Trong tiếng địa phương, tanukimujina (狢, kyujitai: 貉) có thể giống gấu chó hay con lửng. Một con vật được biết đến là tanuki trong một vùng miền nào đó có thể được biết đến là mujina ở một vùng miền khác. Trong tiêu chuẩn ngôn ngữ địa phương của Tokyo hiện đại, thì tanuki là một con gấu chó hay con lửng, cho dù cách đọc của con sau lại được ưa thích hơn.

Khi viết tanuki dưới tiếng kanji, 狸 (kyujitai: 貍) được dùng để ám chỉ các động vật có vú cỡ vừa, thường là mèo hoang. Trong khi mèo hoang chỉ sống ở một số vùng nhất định ở Nhật Bản chẳng hạn như Iriomote, Okinawa), người ta tin rằng, con vật này trước kia có nghĩa là tanuki, đáng lẽ ra là đã bắt đầu trong thời Nhật Bản phong kiến. Khi giải thích mưu mẹo này, cùng với sự quý hiếm của gấu chó ngoài Nhật Bản, có thể đã góp phần vào việc gây ra sự lẫn lộn trong việc dịch chính xác từ “tanuki” ra thành một ngôn ngữ khác.

Trong tiếng lóng của Nhật Bản, tanuki gao (“mặt của tanuki”), có thể cho thấy gương mặt giống y hệt thế kia của các con vật, hay một gương mặt biểu lộ sự giả vờ không quan tâm của con người. Kitsune gao (“mặt của cáo”) cho thấy gương mặt của một người phụ nữ mặt dài, mắt hí, lông mày mỏng và hai gò má hô hốc.

Trong văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

Các bức tượng của Tanuki hoàn toàn có thể tìm thấy rất nhiều ngoài cửa đền và nhà hàng quán ăn, đặc biệt quan trọng là những tiệm mì ở Nhật Bản. Các bức tượng này thường đội một chiếc mũ lớn, hình nón và thường cầm một chai rượu sake trên một tay, và một mẩu giấy hẹn ước hay một cái ví tiền rỗng trên tay còn lại. Các bức tượng Tanuki thường có bụng bự. Và khi nào những bức tượng ấy cũng cho thấy những hòn dái khôi hài, đó là nét đặc trưng của chúng, và thường thõng xuống mặt đất hay sàn nhà, mặc dầu mấy thứ này khi nào cũng bị bỏ quên trong nghệ thuật và thẩm mỹ điêu khắc đương thời. Tanuki cùng với cái bìu dái được phóng lớn
Một bức tượng TanukiHình ảnh vui nhộn của Tanuki đã được người ta nghĩ ra và đã khai triển vào thời Kamakura. Con Tanuki hoang dã thật thì lại có hòn dái lớn và không cân đối, một cụ thể đặc trưng để khơi dậy cảm hứng khôi hài và thổi phồng trong sự miêu tả của những họa sỹ. Con tanuki hoàn toàn có thể cho người ta thấy hòn dái nằm lăng lóc trên sống lưng như cái balo của người hành khách, hay sử dụng chúng như trống. Tanuki có những nét đặc trưng để miêu tả như cái bụng lớn của mình, chúng hoàn toàn có thể được miêu tả một cái trống trên bụng thay vì là hòn dái rất đặc biệt quan trọng trong thẩm mỹ và nghệ thuật đương thời .

Trong thời Kamakura và Muromachi, một số câu truyện bắt đầu có hình ảnh một tanuki gian tà nhiều hơn. Truyện Otogizoshi của Kachi-kachi Yama đã khắc họa hình ảnh một tanuki đã đánh chết một bà cụ đến chết và dâng bà ta lên một ông chồng mà bà ta không biết như một món súp bà cụ, một sự bóp méo mỉa mai trong một công thức truyền thống dân gian là súp tanuki. Một tin đồn khác cho rằng tanuki đã trở nên vô hại và đã sinh sản ra các thành viên của đoàn thể. Một vài ngôi đền có những câu truyện về các thầy tu đời trước, là do tanuki cải trang thành. Con tanuki thay đổi hình dạng đôi khi được cho rằng là một tsukumogami, một biến đổi của các linh hồn của các chủ nhà tốt bụng đã được sử dụng khoảng một trăm năm trước hay hơn nữa.

Một câu chuyển nổi tiếng, được biết đến là Bunbuku chagama, kể về một con tanuki lừa một thầy tu bằng cách biến hóa hình dạng thành một cái ấm trà. Một câu truyện khác kể về một con tanuki lừa một người thợ săn bằng cách biến tay của ông ta thành một cành cây, rồi ông dang rộng hai tay ra đến khi rớt xuống cây. Người ta thường bảo tanuki là những tên lái buôn xảo quyệt khi chúng sử dụng phép thuật để biến lá cây thành tiền giấy. Một vài câu truyện miêu tả tanuki là một con vật sử dụng lá cây như một phần trong quy trình biến hình của chúng .Tanuki có tám nét đặc biệt quan trọng, mà mang những điều tốt đẹp, hoàn toàn có thể tạo ra để hợp với hình tượng ” Hachi ” ( có nghĩa là tám ) thường được tìm thấy trên những bình rượu sake mà những bức tượng cầm. Tám nét đó là : một cái mũ chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ người dân khỏi rắc rối hay thời tiết xấu ; con mắt to để nhận thức được tình hình môi trường tự nhiên và giúp người ta lựa chọn đúng đắn ; một bình rượu sake tượng trưng cho đức hạnh ; cái đuôi lớn là để sẵn sàng chuẩn bị sự chín chắn và sức mạnh đến khi đạt được thành công xuất sắc ; hòn dái quá cỡ là hình tượng như mong muốn về tiền tài ; một mảnh giấy hẹn ước tượng trưng cho sự tin yêu hay sự tự tin ; cái bụng bự là hình tượng của sự quyết định hành động gan góc và tỉnh bơ ; và một nụ cười thân thiện .Một bài hát ở sân trường tại Nhật Bản ( điệu nhạc bài hát hoàn toàn có thể được nghe trong game show dãy cuốn Ponpoko và được đổi khác khi hát trường quay phim Ghibli, lúc quay bộ phim Pom Poko ), trọn vẹn ám chỉ thẳng thuật phẫu thuật của tanuki :
Một bức tượng

Tan Tan Tanuki no kintama wa,
Kaze mo nai no ni,

Bura bura

Tạm dịch :

Hòn dái của Tan-tan-tanuki
Không hề có gió nhưng cứ

Lắc lư lắc lư

Nó vẫn có nhiều câu thơ khác nhau, khác tuỳ vùng miền. Nó được hát dưới giai điệu của một bài thánh ca trong buổi lễ Rửa tội ở Mĩ, có tên là ” Chúng ta có nên tập trung chuyên sâu đến bên dòng sông ? “. Trong ngành luyện kim, da của tanuki thường được sử dụng để pha loãng vàng. Theo như một tác dụng, tanuki đã cộng tác cùng một số ít sắt kẽm kim loại và thuật luyện kim. Các bức tượng tanuki nhỏ được đặt trang trí ở sân trước, và bùa như mong muốn để mang đến sự thịnh vượng. Cũng vì vậy, đó là nguyên do tại sao được miêu tả là có một cái kintama ( 金玉, có nghĩa là banh vàng, cũng có nghĩa là hòn dái trong ngôn từ tự nhiên ở Nhật Bản ) lớn .

Văn hóa đại chúng[sửa|sửa mã nguồn]

  • Tanuki giữa một vai diễn nổi bật trong Tom Robbins’ Villa Incognito.
  • Tất cả các nhân vật chính trong trò Pom Poko đều là các tanuki thay đổi hình dạng và đang cố cứu lấy nhà ở của chúng trước sự khai phá thành thị. Truyền thuyết Nhật Bản về các con tanuki và kitsune chuyên thay đổi hình dạng đặc trưng nặng nề thông qua phim ảnh. Tanuki bị dịch sai trong phim là một con gấu chó trong màn lồng tiếng và bản dịch chính thức.
  • Tom Nook, chủ cửa hàng trong Animal Crossing, là một tanuki (dù nó được dịch thành chồn), và nội thất bên trong và các đồ đạc khác anh mua và bán đều biến thành lá cây khi giữ trong túi đồ của người chơi. “Cháu trai” của Tom Nook là Timmy và Tommy đều là tanuki.
  • Trong tập phim “The Hot Spell is the Spontaneous Onsen” của bộ phim Renkin 3-kyū Magical ? Pokān, bốn công chúa đều gặp phải tanuki trong hình dạng phụ nữ và dụ dỗ các cô gái suối nước nóng mà họ đang tìm và cuối cùng là ăn trộm quần áo của họ ở gần cuối tập phim. Khi họ nhận ra con tanuki trong quần áo của họ ở khúc gần cuối tập phim, Uma đã khai là đây là tất cả những gì họ muốn nói khi bị “lừa bởi một con tanuki”.
  • Doraemon rất ghét bị gọi mình là Tanuki (được dịch là chồn xanh).
  • Trong Naruto, Nhất Vĩ Shukaku (Một trong chín vĩ thú) lấy cảm hứng từ loài tanuki.
  • Ikeda, Yasaburō biên tập (1974). Nihon Minzokushi Taikei日本民俗誌大系,

    Nihon Minzokushi Taikei

    ?. 3. Kadokawa Shoten. ISBN 978-4-04-530303-6.

  • Sakurai, Tokutarō biên tập (1980). Minkan shinkō jiten民間信仰辞典,

    Minkan shinkō jiten

    ?. Tōkyōdō Shuppan. ISBN 978-4-490-10137-9.

  • Katsumi, Tada (1990). Gensō sekai no jūnintachi幻想世界の住人たち,

    Gensō sekai no jūnintachi

    ?. Truth in fantasy. IV. Shinkigensha. ISBN 978-4-915146-44-2.

  • Nakamura, Teiri (1990). Tanuki to sono sekai狸とその世界,

    Tanuki to sono sekai

    ?. Asahi sensho. Asahi Shinbunsha. ISBN 978-4-02-259500-3.

  • Hino, Iwao (2006). Dōbutsu yōkaitan動物妖怪譚,

    Dōbutsu yōkaitan

    ?. 2. Chūō Kōron Shinsha. ISBN 978-4-12-204792-1.

Rate this post
Banner-backlink-danaseo

Bài viết liên quan