Cùng với đó, khoảng 10.000 huấn luyện viên chó nghiệp vụ cũng đã tham chiến. Chiếm tỉ lệ cao nhất trong số này là các quân nhân thuộc Lục quân (65%), tiếp đó là Không quân (26%), Thủy quân lục chiến (7%) và Hải quân (2%). Với con số này, Việt Nam trở thành cuộc chiến mà Mỹ sử dụng chó nghiệp vụ trên quy mô lớn nhất trong tất cả các cuộc xung đột thời Chiến tranh lạnh.
Bạn đang đọc: Quân khuyển Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
Ở Việt Nam, lực lượng quân khuyển Mỹ được giao nhiều trách nhiệm như :
Trinh sát: thông thường trong nhiệm vụ này nhóm 1 chó béc giê Đức và 1 huấn luyện viên sẽ được phối thuộc cho đơn vị bộ binh khi có yêu cầu. Tổ quân khuyển sẽ có nhiệm vụ đi đầu đội hình đóng vai trò tai mắt cho đơn vị, cảnh giới, phát hiện các dấu hiệu có gài bẫy, phục kích, bắn tỉa, dò tìm nơi cất giấu vũ khí, lương thực của Quân Giải phóng và cảnh báo cho đơn vị đi sau. Đây là bộ phận thường phải chịu thương vong nặng nhất trong lực lượng quân khuyển. Phần lớn chó trinh sát và huấn luyện viên được đào tạo tại căn cứ Lục quân Fort Benning, Georgia (Mỹ) hoặc huấn luyện tại chỗ.
Tuần tra: Tổ quân khuyển gồm 1 béc giê Đức và 1 huấn luyện viên, có nhiệm vụ tuần tra vòng ngoài ở các căn cứ, kho tàng, các cơ sở quan trọng… và dùng điện đài thông báo ngay cho lực lượng bảo vệ khi có dấu hiệu khả nghi. Các nhóm chó nghiệp vụ tuần tra thường hoạt động về đêm và được sử dụng rộng rãi bởi tất cả các đơn vị đóng căn cứ ở Việt Nam cũng như Thái Lan. Chó tuần tra và huấn luyện viên phần lớn được đào tạo tại căn cứ Không quân Lackland, Texas (Mỹ), một số ở Showa, Tachikawa, Nhật hoặc tại chỗ.
Tuần tra mặt nước: chó nghiệp vụ được triển khai theo các tàu, thuyền tuần tra tốc độ thấp trên các tuyến giao thông đường sông của Mỹ nhằm phát hiện hơi thở từ các thiết bị lặn, từ đó ngăn chặn hoạt động của đặc công nước Quân Giải phóng.
Dò mìn/bẫy/đường hầm: tổ quân khuyển cũng gồm 1 chó béc giê Đức và 1 huấn luyện viên. Đúng như tên gọi, chó nghiệp vụ có nhiệm vụ dò tìm đường hầm, các dấu vết của mìn, bẫy và các phương tiện sát thương khác để hỗ trợ các hoạt động của công binh chiến đấu Lục quân và Thủy quân lục chiến. Ngoài ra các tổ quân khuyển này còn tham gia hỗ trợ hoạt động lùng sục càn quét làng mạc và những khu vực nghi ngờ có kho tàng của Quân Giải phóng.
Nhóm tác chiến dò tìm ( CTT ) là một quy mô riêng được thiết kế xây dựng để chống lại những hoạt động giải trí cuộc chiến tranh du kích của Việt Nam. Mỗi nhóm tác chiến này gồm 2 chó nghiệp vụ Labrador ( trong đó 1 làm dự bị ) và 5 lính gồm huấn luyện viên, lính tìm kiếm theo dấu vết, lính yểm trợ, điện đài viên và tổ trưởng. Dựa trên kinh nghiệm tay nghề chống du kích của quân đội Anh ở Malaysia, những nhóm CTT có trách nhiệm dữ thế chủ động truy lùng Quân Giải phóng. Từ năm 1964 có 14 nhóm CTT được giảng dạy theo giáo trình của Anh. Hoạt động huấn luyện và đào tạo này được triển khai bí hiểm tại Trường tác chiến rừng ở Borneo, Malaysia để che giấu sự tương hỗ về mặt quân sự chiến lược của Anh và Malaysia cho cuộc cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ. Các chó nghiệp vụ được quân đội Anh cung ứng trong khi công tác làm việc giảng dạy do lính SAS Australia và New Zealand – 2 vương quốc có quân tham chiến trực tiếp ở Việt Nam đảm nhiệm. Bắt đầu từ năm 1966, quân đội Mỹ tự mở TT huấn luyện và đào tạo riêng của mình ở địa thế căn cứ Lục quân Fort Gordon, Georgia ( Mỹ ). So với tổ chức triển khai bắt đầu của Anh, người Mỹ có sự kiểm soát và điều chỉnh. Các nhóm CTT được gom thành những trung đội trong sư đoàn bộ binh hoặc phân đội trong những đơn vị chức năng nhỏ hơn, số lượng chó nghiệp vụ và luyện viên trong mỗi phân đội được giảm bớt, nhưng bổ trợ thêm những thám thính là hồi chánh viên của Quân Giải phóng được đào tạo và giảng dạy theo chương trình Kit Carson Scout. Mặc dù vậy, những nhóm CTT vẫn gặp rất nhiều khó khăn vất vả. Theo số liệu thống kê, một đơn vị chức năng như vậy – Trung đội bộ binh số 63 trong thời hạn từ tháng 9/1969 đến tháng 1/1971 chỉ bắt giữ được 80 người tình nghi hoạt động giải trí cho Cách mạng. Trong nhiều trường hợp, những đơn vị chức năng này mất hàng tháng trời mà không phát hiện được dấu vết của Quân Giải phóng hay du kích.
Quân đội Mỹ tổng kết có khoảng 350 chó nghiệp vụ và 263 huấn luyện viên đã thiệt mạng ở Việt Nam, nhiều trường hợp khác bị thương. Hoạt động của chó nghiệp vụ được cho là đã cứu mạng khoảng 10.000 lính Mỹ.
Tuy nhiên số phận của lực lượng chó nghiệp vụ Mỹ ở Việt Nam lại khá hẩm hiu. Sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam thì những đơn vị chức năng quân khuyển bị giải thể. Các chó nghiệp vụ được quân đội Mỹ phân loại thành trang bị bỏ đi. Trong số hàng ngàn chó nghiệp vụ chỉ có 204 con được mang theo để tiến hành ở những địa thế căn cứ khác, 1 số ít ít chuyển giao cho QLVNCH liên tục sử dụng, số còn lại đơn thuần là bị giết hoặc bị vứt bỏ.
Thất bại công nghệ hàng đầu của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
Từ trước khi chính thức trực tiếp can thiệp vào Việt Nam, cắt đứt đường Trường Sơn là kế hoạch được ưu tiên số 1 của Lầu Năm Góc. Khi cuộc chiến lên đến đỉnh điểm, nỗ lực này trở thành dự án Bất Động Sản công nghệ tiên tiến tham vọng nhất, quy tụ những công nghệ tiên tiến tối tân nhất của Mỹ thời bấy giờ.
Lực lượng hải quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam (phần 2)
Các tàu chiến mặt nước hầu hết của Hải quân Mỹ được tổ chức triển khai thành Cụm tác chiến đặc nhiệm Tuần dương hạm và Khu trục hạm, hay còn mang phiên hiệu Cụm tác chiến đặc nhiệm 70.8. Trong đó thành phần thường trực chiến đấu thường xuất hiện 1 thiết giáp hạm và 2 tuần dương hạm.
Source: https://thucanh.vn
Category: Chó cảnh