Nghệ sĩ piano người Nhật Mitsuko Uchida – sinh ngày 20/12/1948 tại Atami, thị trấn ven biển cách Tokyo không xa, trưởng thành trong môi trường âm nhạc Vienna và sinh sống ở Luân Đôn – là một nghệ sĩ với cá tính đa dạng, một “nghệ sĩ bên trong một nghệ sĩ”. Các bản thu âm với hãng Philips những tác phẩm Cổ điển và Lãng mạn chuẩn mực đã mang lại danh tiếng cho Uchida bằng vẻ tao nhã và sự thâm sâu trong nghệ thuật trình diễn. Nét thanh lịch và sự biểu đạt sâu sắc trong lối chơi của Uchida còn được thấy ngay cả trong những tác phẩm mang hơi hướng hiện đại từ Debussy, Schoenberg đến Bartok hay Messiaen…
Khi nói về thẩm mỹ và nghệ thuật trình diễn của mình, Mitsuko Uchida thường nhắc đi nhắc lại về “ sự cân đối ”, việc giữ cân đối trong lối chơi theo bà không mang nghĩa giải pháp bảo đảm an toàn khiến vốn tiết mục của nghệ sĩ bị số lượng giới hạn trong những tác phẩm đẹp hòa giải và cân đối, không khiến mọi thứ trở nên đơn thuần một cách nhàm chán mà sự cân đối giúp những yếu tố tưởng như tương phản với nhau hoàn toàn có thể đồng thời cùng bộc lộ. Bà chơi nhạc với sự nhạy cảm kỳ lạ về sự cân đối : giữa cái khắc nghiệt của lý trí và sự tự nhiên trong miêu tả cảm hứng ; giữa nhận thức sắc bén về truyền thống cuội nguồn và nhu yếu so với bản thân luôn tò mò không có số lượng giới hạn ; bà nỗ lực biểu lộ bản thân tuy nhiên cũng nhận thức thâm thúy đối tượng người tiêu dùng đang được chuyển tải qua phím đàn của mình với sự tôn trọng cao độ. Tất cả điều trên có thế làm ra tên tuổi cho bất kể nghệ sĩ nào tuy nhiên Uchida còn độc lạ ở điểm bà chịu ảnh hưởng tác động từ nhiều nên văn hóa truyền thống : sinh ra là người Nhật, được đào tạo và giảng dạy âm nhạc ở Vienna và chọn Luân Đôn là điểm dừng chân từ hơn 2 thập kỷ qua, bà thấy niềm hạnh phúc khi tự gọi mình là một phụ nữ Anh .
Bạn đang đọc: UCHIDA, MITSUKO (1948-)
Từ khi rời khỏi Nhật năm 12 tuổi, để cho dễ hình dung với người nước ngoài Uchida thường đơn giản nói là mình sinh ở Tokyo, nhưng người Nhật gốc đều có thể nhận ra nét dân miền biển nơi Uchida. Gia đình Mitsuko chuyển đến thành phố trong thời gian bị ném bom, cha của bà là đại sứ của Nhật tại Đức, nên cứ 5 năm gia đình mới đoàn tụ một lần. Đến khi Uchida 4 tuổi, gia đình chuyển lên Tokyo, đó cũng là thời gian Uchida thực sự có những bài học piano đầu tiên. Các cô giáo tại nhà trẻ vẫn nhớ đến cô bé Mitsuko mỗi khi nghe thấy tiếng piano hoặc đàn hơi ở đâu là bò ngay đến đó. Ở nhà, cô bé thường chăm chú theo dõi anh trai học đàn và nhanh chóng tiếp thu theo cách riêng của mình. Cô vào học trường nhạc từ năm lên 7, nhưng đến năm 12 tuổi thì gia đình chuyển đến châu Âu. “Ngay sau sinh nhật lần thứ 12, gia đình rời đi Vienna, và tôi không bao giờ nhìn lại. Nếu điều đó không xảy ra chắc tôi không có cơ hội theo đuổi sự nghiệp âm nhạc.”
Trong những tuần mới đến Vienna cô đã được học tại Hochschule für Musik. Lớp nhạc giới hạn độ tuổi nhỏ nhất là 12, nhưng không có giới hạn với người lớn tuổi, thế nên Uchida học chung với cả những người 35 tuổi. “Cho đến lúc đó tôi là một cô bé bình thường, đến lớp nhạc đều đặn vào cuối tuần. Tôi học nhạc rất chăm chỉ nhưng chẳng ý thức rằng một nhạc công hay một nghệ sĩ sẽ là như thế nào. Chẳng có gì thay đổi trong suy nghĩ của tôi thậm chí đến cả khi có recital đầu tiên năm 14 tuổi”. Sau buổi recital, Uchida đến lớp học và giáo viên hỏi cô “Giờ thì em sắp trở thành một nghệ sĩ thực thụ, em biết chứ?” và cô bé trả lời với vẻ thản nhiên “không ạ!”, giáo viên đã rất bực mình.
Gia đình Uchida chuyển đến Cologne khi cô bé 15 tuổi, nhưng một năm sau cô trở lại Vienna, lúc này đã ý thức về việc trở thành một pianist chuyên nghiệp. Đó thực sự là một bước ngoặt khi cô phải lựa chọn, giữa việc hoặc là ở lại với bố mẹ tại Cologne, học nhạc với giáo viên tại nhạc viện mà cô không mấy thích thú, hoặc trở lại trường học bình thường, đơn giản là một cô bé con vị đại sứ dễ mến. Lựa chọn sau cùng là trở lại Vienna, sống xa bố mẹ trong ký túc xá và tiếp tục học nhạc như 4 năm vừa qua. Lựa chọn quay lại Vienna, cô học với Richard Hauser, Wilhelm Kempff và Stefan Askenase. Đó cũng là những năm cuối đời của Rchard Hausert, chỉ một thời gian trước khi ông qua đời ông đã hỏi về việc có muốn trở thành giáo viên trợ giảng không. Uchida đã trả lời “Ở tuổi này tôi chưa biết gì cả! Làm sao tôi có thể dạy người khác?” Nếu đồng ý thì Uchida đã có khá nhiều kinh nghiêm giảng dạy từ năm 20 tuổi đến giờ.
Khi cô tốt nghiệp và giành 2 giải lớn vào năm 1969 và 1970 ( giải nhất cuộc thi Beethoven ở Vienna năm 69, giải nhì cuộc thì Chopin năm 70 ), Uchida đã cảm thấy buộc phải rời Vienna để có được sự đổi khác. Cô thấy mình đầy sức sống và táo bạo như một kẻ làm mưa làm gió, cảm xúc không sợ điều gì và thật can đảm và mạnh mẽ. Môi trường âm nhạc Vienna thật tuyệt diệu. Nhưng khi đã là một nghệ sĩ thành thục rồi thì cô lại do dự rằng liệu những gì cô được biết có thực sự luôn đúng ? ! Và có phải là duy nhất đúng ? ! Sao họ hoàn toàn có thể biết Mozart chỉ nên được diễn giải thế nào. Và cho đến tận giờ đây, Uchida vẫn luôn do dự về câu hỏi đó, đó không chỉ là về lối chơi nhạc Mozart mà về cả Schubert, Beethoven hay bất kể ai khác … đó là cách một nghệ sĩ không khi nào ngừng phát minh sáng tạo dù luôn sống sót rất nhiều truyền thống cuội nguồn và chuẩn mực .
Khi đó Uchida không có tưởng tượng đơn cử về nơi cô muốn gắn bó. Bắc Mỹ có sức hấp dẫn nhất định, với thời cơ cộng tác cùng Leon Fleisher ( nhạc trưởng, pianist người Mỹ sinh năm 1928 ) nhưng rồi cô quyết định hành động đến Luân Đôn vì cảm thấy thiên nhiên và môi trường âm nhạc ở đây khá cơi mở, hoàn toàn có thể dung nạp những ý tưởng sáng tạo độc lạ và sau 30 năm ở Luân Đôn, Uchida thấy không hề hụt hẫng về lựa chọn đó .
Khi mới đến Luân Đôn, với những sáng tạo độc đáo thay đổi, Uchida mong ước rũ bỏ mọi thứ ràng buộc trong lối chơi nhạc có tương quan đến phong cách Nhật hay Áo. Ban đầu có vẻ như khá khó tuy nhiên về sau dần có hiệu quả, dù mất tầm 5 đến 6 năm. Ở đây, sau cuối cô cũng độc lập về kinh tế tài chính ( khi 24 tuổi ), nhưng đến năm 30 tuổi đời sống mới trở nên tự do bằng chính những gì thu được từ âm nhạc. Khi đã trọn vẹn làm chủ đời sống và thấy mọi thứ mỗi ngày đều trở nên thuận tiện hơn. Cô nghĩ đến những kế hoạch lớn, như việc chinh phục trọn bộ những sonata của Mozart hay Schubert. Gần thời gian đó Alfred Brendel đang nổi danh với những tác phẩm Schubert ở Luân Đôn, nhưng không có mấy người chơi sonata Mozart toàn vẹn. Do đó ý tưởng sáng tạo theo đuổi những tác phẩm của Mozart khởi đầu hình thành. Kết quả là loạt recital những Sonata của Mozart tại Wigmore Hall năm 1982 đã khiến tên tuổi Mitsuko Uchida được chứng minh và khẳng định, trước hết là tại Luân Đôn. Đến khi những bản thu âm trọn bộ Sonata và concerto của Mozart được phát hành thoáng đãng thì nổi tiếng của Uchida đã vươn lên tầm quốc tế. Trong quy trình ra đĩa, đã có lúc Uchida định chuyển sang thu âm Schubert, nhưng nhà phân phối của hãng Philips – Erik Smith sau khi bàn luận với Trụ sở Philips tại Nhật đã quyết định hành động họ sẽ liên tục với Mozart vì có năng lực cháy khách hơn. Mỗi khi một bản thu âm Mozart mới sinh ra, Uchida và Smith mong ước cái sau sẽ là Schubert, nhưng những phản hồi từ giới phê bình và doanh thu bán đĩa đã khiến họ quay lại với Mozart. Và thế là hai người lại nói “ xin lỗi ” với nhau, đó là cách hoàn tất trọn bộ Mozart – cùng với những lời xin lỗi .
“Ngay mỗi khi bắt đầu, tôi đã quyết định sẽ chỉ thu âm bản đó rồi dừng, nhưng có lẽ đến cuối đời tôi có thể sẽ hối hận vì không hoàn tất phần còn lại.” Trong quá trình sản xuất đĩa, cô đã từng nghe những lời đàm tiếu của một số người trong hãng thu âm (không phải Erik) như là “Tại sao họ không lấy tên bộ đĩa là “Mitsuko chơi Minute Waltz tất sẽ bán chạy””. Có người liền ủng hộ ý kiến này và nói “Vậy anh nên hỏi cô ấy. Tôi thì không định nghe mắng”, thế là chẳng bao giờ họ dám hỏi cả.
“Đúng là người đại diện đã tìm ra cách dễ nhất để sản phẩm bán được là dán cả tấn nhãn Mozart lên tôi – nhưng về khía cạnh âm nhạc thì tôi phát hiện ra là Mozart quá tuyệt vời, nếu tôi muốn làm gì đó khác biệt, thì tôi phải làm nó sau khi đã thực hiện xong các tác phẩm của Mozart”. Bất chấp việc chơi đi chơi lại các tác phẩm Mozart trong thời gian dài, bà khẳng định ngày càng thấy kinh ngạc và bị lôi cuốn trước âm nhạc của ông. Sau thời kỳ hoàn tất bản thu âm Mozart, Uchida quả thực đã tìm cách đa dạng hóa danh mục biểu diễn bởi thấy không thể dành cả đời chỉ chơi nhạc của một nhạc sĩ. Và cô cũng nhận thấy rằng nếu tiếp tục chỉ chơi Mozart thì sẽ chỉ làm tổn hại khả năng của chính mình.
Cuối cùng thì Uchida hoàn toàn có thể tự hào về sự nghiệp được kiến thiết xây dựng trên một hạng mục tác phẩm nhiều mẫu mã, trải dài từ tác phẩm Cổ điển : của Bach, Mozart, Beethoven ; Lãng Mạn : Schubert, Schumann … Ấn tượng : Debussy cho đến những tác phẩm của Trường phái Vienna 2 như Schoenberg, Berg và Webern. Bà rất là kính trọng kính trọng và chịu nhiều ảnh hưởng tác động từ toàn bộ những nhà soạn nhạc này. Ngoài ra bà cũng dành mối chăm sóc đến những tác giả đương đại, đặc biệt quan trọng là sự cộng tác với Harrison Birtwistle .
Trong số những bản thu âm đáng nhớ của Uchida, ngoài Mozart còn kể đến những Etudes của Debussy, trọn bộ Concerto của Beethoven dưới sự chỉ huy của Kurt Sanderling, concerto của Schoenberg hợp tác với Pierre Boulez và sau cuối là trọn bộ sonata của Schubert, nhạc sĩ mà bà cảm thấy thân mật với mình nhất. Loạt sonata của Schubert, cùng với bộ Impromptus và Moments Musicaux, được triển khai xong năm 2002. Còn trong những buổi hòa nhạc tại những TT lớn, bà trở lại với những tác phẩm Mozart, triển khai xong một seri cùng Cleveland Orchestra ( trong vai trò chỉ huy dàn nhạc kiêm pianist ) mà đến tháng 5 năm 2007 mới hoàn tất .
Sau Mozart, Uchida cũng đặc biệt hăm hở muốn thử sức với các tác phẩm Beethoven và cũng được công chúng cùng giới phê bình đánh giá cao. Qua đó đã chứng tỏ việc gắn bó với một vài tác giả, không hề làm tư duy nghệ sĩ đi theo lối mòn mà trái lại, tăng thêm giá trị ngày càng sâu sắc cho việc diễn giải tác phẩm. Uchida tâm sự “Tôi dần thấy thực sự hiểu sức mạnh và vẻ đẹp cao thượng cùng tinh thần nhân đạo của Beethoven”, “như thể ông ấy thấu hiểu toàn vũ trụ, chứ không chỉ trái đất Đó là sức mạnh như núi lửa phun trào song với lòng nhân đạo khác thường”, sức mạnh không phải để hủy diệt mà là để tạo ra sự sống. Bà cho rằng để chơi được nhạc Beethoven luôn vô cùng khó, không xét theo nghĩa chơi được mà là chơi tốt nhất.
Trong cuộc phỏng vấn đầu năm 2008 với New York Times khi được hỏi tuổi tác có tác động ảnh hưởng gì đến âm nhạc của bà không ( vì tháng 12 năm 2008 bà tròn 60 tuổi ), Uchida nói chẳng hề gì, cái bà lo là khi ở tuổi 70 sẽ thật không dễ gì trấn áp những bản khó như sonata “ Hammerklavier ”. Câu chuyện cho thấy Uchida vẫn đang mê hồn Beethoven như thế nào. Nhưng có vẻ như điều bà mong ước tò mò nhất trong mọi thời gian lại là tác phẩm Schubert, đặc biệt quan trọng là những Sonata cuối đời, như bản Si giáng D 960 theo bà là một trong những tác phẩm gây ám ảnh cho người nghệ sĩ, khiến họ luôn đi tìm kiếm cảm xúc bộc lộ được toàn vẹn nó trong những buổi trình diễn tuy nhiên có vẻ như không khi nào đạt được, ngay với bản thu âm ( không phát hành ) của Arthur Rubinstein thì phần cuối cũng gây tuyệt vọng .
Bản thu âm sonata kể trên năm 1998 của Uchida chưa đạt được điều bà kỳ vọng, tuy nhiên cũng chứng tỏ được giá trị đáng lưu tâm của tác phẩm, chớp lấy được cả sự uy nghiêm lẫn vẻ huyền bí của nó. Đó là lời hùng biện đầy thuyết phục trong yên bình, bản thân lời diễn giải này cũng cho thấy sự kỳ quặc của bản nhạc, những âm thanh rất riêng không liên quan gì đến nhau đồng hiện ở bè bass. Bản nhạc có sức thuyết phục và hấp dẫn rõ nét trong trạng thái yên bình với vẻ trầm tư, trạng thái mà Uchida cho là mình sinh ra đã thích hợp để chơi những bản nhạc như vậy .
Người ta đã nhận xét về lối chơi của Uchida rằng “có rất ít nghệ sĩ có thể làm bản nhạc tĩnh lặng quyến rũ theo lối diễn giải đầy tính hùng biện như thế”. Từ điển Grove phiên bản mới về Âm nhạc và nghệ sĩ – một trong những từ điển lớn nhất về âm nhạc phương Tây được sử dụng rộng rãi qua nhiều phiên bản từ thế kỷ 19, đã viết về Uchida với những dòng nhận xét “lối trình diễn của bà khiến nhiều nhạc sĩ như ngự trị ở một thế giới quá lý tưởng và xa cách với thế giới thực”, nhận xét này đã khiến Uchida cười lớn khi phóng viên New York Times đọc phần trích dẫn.
Quay trở lại với bản sonata Si thứ của Schubert, 2 chương cuối thường được xem là trống rỗng và huyên náo so với 2 chương đầu tương đối ổn thì khi qua đôi tay điêu luyện của Uchida, chúng trở nên tầm vóc và có sực nặng. Đi sâu vào tác phẩm, Uchida có những diễn giải theo cách khá kỳ cục về các chương nhạc, “về cơ bản trong chương đầu có thể coi bạn đang chết dần, đến chương chậm sau đó thì bạn đã thực sự chết rồi. Còn trong chương scherzo, những cô con gái của Erlkönig dường như đang nhảy múa xung quanh bạn. Trong chương cuối cánh cổng địa ngục đột ngột đóng sập ngay trước mũi bạn. Bạn muốn tìm lối vào khác song vô hiệu… và bản nhạc cứ tiếp tục như vậy cho đến kết thúc, đó là một cái kết kỳ quặc và chóng vánh, nhưng bạn bỗng nhiên tìm được đường và bước qua cánh cổng đó, mỉm cười hạnh phúc” Bản nhạc như câu chuyện về cái giá để có thể thỏa thuận với cái chết, khi viết những giai điệu đó hẳn Schubert biết rằng cái chết đang đến với mình, dường như là một kết thúc bất hạnh và bỗng nhiên cánh cửa hé mở với ánh sáng! đó là nét hấp dẫn của bản nhạc này.”
Với bản sonata thứ 2 của Schubert trong chương trình biểu diễn của Uchida tại Carnegie Hall (đầu năm 2008), bà cũng có những hình dung tương tự. “Đó là tất cả nỗi đau và sự sợ hãi cùng bi kịch của cuộc đời, bất chấp sự an ủi khó tin đã có ở chương chậm, chương cuối thực sự là nghi lễ của thần chết. Nỗi sợ xâm chiếm làm run rẩy còn hơn cả chương “Erlkönig” ở Sonata Si thứ. Bạn như đang cưỡi trên mình một con ngựa với tiếng móng sắt gõ huyên náo xuống mặt đường, đằng sau, đàn chó săn địa ngục đang bám đuổi rất sát. Ban cứ thế phóng đi mải miết, trên con đường lao thẳng trong cái tăm tối của địa ngục”. Sonata giọng Đô thứ của Schubert (Sonata in C minor D. 958) gắn với diễn giải của Uchida qua những hình ảnh kể trên, là một trong ba sonata khá sâu sắc thời kỳ cuối của nhạc sĩ được viết vào tháng 9 năm 1828 – 3 tháng trước khi ông qua đời ở tuổi 31. Bản sonata thường được hình dung như một con đường ghồ ghề đầy khúc quanh sâu tối, khác rất nhiều so với nét dịu ngọt trong các tác phẩm thông thường của Schubert. Song bằng cái nhìn xuyên suốt, Uchida đã vượt qua chặng đường gian nan đó, cùng với thính giả có những trải nghiệm khó quên. Quả là những hình dung kỳ lạ và thậm chí có vẻ tầm thường hoặc ghê sợ. Nhưng nếu chúng chính là cái thắp lửa cho trí tưởng tượng âm nhạc của Uchida trong việc diễn giải tác phẩm, thì kết quả buổi diễn đã cho thấy giá trị lớn lao của những hình ảnh đó.
Trong năm 2008, Uchida lại có 10 concert tại Carnegie Hall trong đó gồm 9 chương trình trên chủ đề “ Thăm lại Trường phái Vienna 2 ” và một chương trình ngoài chủ đề trên. Chương trình này đã từng màn biểu diễn tại châu Âu năm 2005 / 2006. Bà nói đùa rằng đáng ra nên gọi chúng là “ Mitsuko muốn chơi nhạc của Trường phái Vienna 2, chẳng phải bà vẫn dính với Mozart và Schubert hay sao ? ”. Nhưng trong thực tiễn cho thấy bà đã phối hợp khá hòa giải phong thái âm nhạc tân tiến với Mozart, Schubert hay Beethoven .
Không chỉ chú tâm vào diễn giải và chuyển tải âm nhạc qua phím đàn, Uchida còn thể hiện mối quan tâm đến những tài năng âm nhạc trẻ tuổi, bắt đầu từ Festival âm nhạc Marlboro tổ chức từ năm 2000 cùng với nghệ sĩ dương cầm người Mỹ Richard Goode, bà xuất hiện cùng với nhiều nghệ sĩ trẻ, cùng họ chơi nhạc và giới thiệu họ với công chúng. Đến năm 2001, cùng với sự hỗ trợ tài chính từ tổ chức Borletti Buitoni Trust của hai vợ chống Ilaria Borletti và Franco Buitoni – Uchida trong vai trò nối kết giữa các nghệ sĩ trẻ triển vọng và những mạnh thường quân đầy nhiệt huyết muốn đóng góp cho sự phát triển âm nhạc cổ điển, đã lập nên giải thưởng Trust cho đối tượng nghệ sĩ từ 22 đến 35 tuổi, với các mức giải thưởng bao gồm: từ 40.000 USD cho một cá nhân đến 60.000 USD cho một nhóm tứ tấu, nhóm nhạc quy mô nhỏ hơn đươc hưởng từ 20.000 USD đến 30.000 USD. Hai người phụ nữ đưa ra ý tưởng về quỹ tài trợ, Uchida và Borletti cùng chia sẻ quan điểm “cuộc đời một nghệ sĩ có ý nghĩa nhất không phải ở điều họ làm được lúc 16 hay 18 tuổi mà là cái họ cống hiện khi đã trưởng thành trong nỗ lực đưa âm nhạc đến với công chúng.” Uchida thể hiện sự thông cảm với những người trẻ tuổi về “một thời kỳ khó khăn, đó là khi bạn mới rời nhạc viện và tới những trung tâm nghệ thuật lớn, sau khi giành được chiến thắng ở 1, 2 cuộc thi tầm cỡ, bạn thấy thế giới thật rộng lớn và bạn tưởng là sẽ kiếm được nhiều tiền, nhưng không hẳn vậy… Có một thời điểm trong cuộc sống mà người ta cần được sự trợ giúp để đi đúng hướng”.
Qua quá trình thành danh của Uchida, có thể thấy rõ bà phải cân nhắc đến yếu tố khán giả thế nào, song không gì có thể làm ảnh hưởng đến sự “cân bằng hoàn hảo” mà bà luôn trau dồi học hỏi để đạt được. Bà cũng ý thức những nguy hiểm mà danh tiếng mang lại. “Bạn có thể tập luyện hay học hỏi mọi thứ, làm việc nhiều như bạn thích để đạt được điều mình muốn. Nhưng khi đối mặt với việc quảng bá bản thân thì lại rất khác. Có rất nhiều ví dụ về những cá nhân trở nên ham thích một cách mù quáng việc thể hiện trước công chúng. Quảng bá “thương hiệu”, tiền bạc và sức mạnh có thể lây lan và dễ gây nghiện”. Do đó bà tâm sự rằng không định trở thành nghệ sĩ được trả giá cao nhất hay người nổi tiếng nhất. “Tôi không có ý định chơi nhạc hay kiếm tiền nhiều như tôi có thể. Tôi muốn giữ cuộc sống là của chính mình bởi không muốn trở thành pianist kém hạnh phúc nhất. Tôi cần thời gian cho bản thân để nghỉ ngơi. Nếu bạn giữ được sự cân bằng, không có gì tốt hơn cuộc đời một nghệ sĩ. Hạnh phúc thật đơn giản khi tôi tự hỏi mình có sẵn lòng trả tiền để được dự một buổi hòa nhạc hay không, chắc chắn là có – những thực tế là thay vào đó họ lại trả tiền cho tôi về buổi hòa nhạc. Chẳng phải thế là may mắn sao!”
Lê Long ( nhaccodien.info ) tổng hợp
Source: https://thucanh.vn
Category: Chó cảnh