Họ Thằn lằn bóng – Wikipedia tiếng Việt

Họ Thằn lằn bóng hay họ Rắn mối (danh pháp khoa học: Scincidae) là một họ trong phân thứ bộ Scincomorpha. Với hơn 1.500 loài đã mô tả, đây là một trong những họ thằn lằn đa dạng nhất.[1]

Các loài rắn mối có thể trông giống các loài thuộc họ Lacertidae, nhưng hầu hết không có phần cổ rõ ràng, chân lại tương đối nhỏ; một số chi (như Typhlosaurus) còn không có chân. Ở một số chi khác, như Neoseps, chân thoái hóa mạnh, mỗi bàn có dưới năm ngón. Với những loài này, cách di chuyển của chúng gợi đến rắn hơn là những loại thằn lằn có chân phát triển đầy đủ. Ngón chân càng dài, càng có nhiều khả năng chúng sống trên cây.

Đa số loài có đuôi dài, chóp nhọn, hoàn toàn có thể đứt ra nếu động vật hoang dã săn mồi chộp phải. Những loài như vậy hoàn toàn có thể tái tạo phần đuôi đã mất, dù không tuyệt vời .

Một số loài rắn mối khá nhỏ; Scincella lateralis thường có chiều dài điển hình 7,5 đến 14,5 cm (3,0 đến 5,7 in) trước, hơn một nửa con số là chiều dài đuôi. Tuy vậy, đa phần rắn mối có kích thước vừa, với chiều dài từ mỏm tới huyệt khoảng 12 cm (4,7 in). Corucia zebrata là loài rắn mối lớn nhất, có thể đạt chiều dài mỏm-huyệt 35 cm (14 in).

Các loài trong chi Prasinohaema có máu màu lục do lượng biliverdin trong máu.

Thằn lằn ” kiểu rắn mối ” được ghi nhận trong hóa thạch từ 140 triệu năm trước, vào thời kỳ Creta sớm. Sự tương đương này nằm đa phần ở đặc thù xương hàm. Hóa thạch chắc như đinh là rắn mối Open trễ hơn, vào thế Miocen .Những chi rắn mối sau được ghi nhận trong hóa thạch : [ 2 ]

Một nét có ở gần như mọi loài rắn mối là khả năng đào hang. Chúng dành hầu hết thời gian dưới đất nhằm tránh động vật ăn thịt, có khi còn đào qua khe nước. Chúng lấy lưỡi “ngửi” không khí và lần dấu con mồi. Khi thấy mối, chúng đuổi theo cho tới khi chộp được và nuốt trọn.

Chế độ ăn[sửa|sửa mã nguồn]

Rắn mối hầu hết ăn côn trùng nhỏ. Những con mồi nổi bật của chúng là ruồi, dế mèn, châu chấu, bọ cánh cứng, và sâu bướm, nhện, mối, ve sầu. Nhiều loài còn ăn giun đất, cuốn chiếu, ốc sên, sên lãi, chân đều, bướm đêm, thằn lằn khác và gặm nhấm nhỏ. Số ít loài, nhất là những loài hay được nuôi làm ” thú cưng “, ăn tạp hơn, và hoàn toàn có thể giữ chính sách ăn 60 % rau / lá / trái cây và 40 % thịt ( côn trùng nhỏ, gặm nhấm ). [ 3 ]

Nhiều chi lớn, ví dụ Mabuya, vẫn chưa được nghiên cứu sâu, và sự phân loại hiện chưa thống nhất. Có một số loài từng thuộc Mabuya đã được chuyển qua Trachylepis, Chioninia, và Eutropis.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

5/5 - (1 vote)
Banner-backlink-danaseo

Bài viết liên quan