Họ Bồ câu – Wikipedia tiếng Việt

Banner-backlink-danaseo

Họ Bồ câu (Columbidae) là họ duy nhất trong Bộ Bồ câu (Columbiformes). Tên gọi phổ biến của các loài trong họ này là bồ câu, cu, cưu và gầm ghì. Đây là những loài chim mập mạp có cổ ngắn và mỏ dài mảnh khảnh. Chúng chủ yếu ăn hạt, trái cây và thực vật. Các loài trong họ này phổ biến rộng khắp thế giới, ngoại trừ sa mạc Sahara và châu Nam Cực, nhưng có sự đa dạng lớn nhất tại các khu vực sinh thái Indomalaya và Australasia.

Họ này chứa 344 loài được chia thành 49 chi. Mười ba loài đã bị tuyệt chủng .Chim bồ câu xây những cái tổ tương đối mỏng dính, thường sử dụng gậy và những mảnh vụn khác, hoàn toàn có thể được đặt trên những cành cây, trên những gờ hoặc trên mặt đất, tùy theo loài. Chúng đẻ một hoặc ( thường ) hai quả trứng trắng cùng một lúc, và cả bố và mẹ đều chăm nom con non. Chúng rời tổ sau 25 ngày 32 ngày. Chim bồ câu không lông thường hoàn toàn có thể bay được khi chúng được 5 tuần tuổi. Không giống như hầu hết những loài chim, cả hai giới của chim bồ câu đều sản xuất ” sữa cây ” để nuôi con non, được tiết ra bằng cách làm bong những tế bào chứa đầy chất lỏng từ lớp lót của chúng .

Đặc điểm sinh học[sửa|sửa mã nguồn]

Cấu tạo ngoài

Thân nhiệt chim bồ câu không thay đổi trong điều kiện kèm theo nhiệt độ thiên nhiên và môi trường đổi khác ; chim bồ câu là động vật hoang dã hằng nhiệt .Thân chim hình thoi làm giảm sức cản không khí khi bay. Da khô phủ lông vũ. Lông vũ bao trùm body toàn thân là lông ống, có phiến lông rộng tạo thành cánh, đuôi chim ( vai trò bánh lái ). Lông vũ mọc áp sát vào thân là lông tơ. Lông tơ chỉ có chùm sợi lông mảnh tạo thành lớp xốp giữ nhiệt và làm thân chim nhẹ .

  • Cánh chim khi xòe ra tạo thành một diện tích rộng quạt gió, khi cụp lại thì gọn áp vào thân.
  • Chi sau có bàn chân dài ba ngón trước, một ngón sau, đều có vuốt, giúp chim bám chặt vào cành cây khi chim đậu hoặc duỗi thẳng, xòe rộng ngón khi chim hạ cánh.
  • Mỏ sừng bao bọc hàm không có răng, làm đầu chim nhẹ. Cổ dài, đầu chim linh hoạt, phát huy được tác dụng của giác quan (mắt, tai), thuận lợi khi bắt mồi, rỉa lông. Tuyến phao câu tiết chất nhờn khi chim rỉa lông làm lông mịn, không thấm nước.
  • Chim bồ câu cũng như nhiều loài chim khác chỉ có kiểu bay vỗ cánh như chim sẻ, chim ri, chim khuyên, gà…

a ) Khi chim cất cánh chân chim khuỵu xuống, cánh chim dang rộng đưa lên cao, tiếp theo cánh chim đập mạnh xuống, cổ chim vươn ra, chân chim duỗi thẳng đập mạnh vào giá thể làm chim bật cao lên .b ) Khi chim hạ cánh, cánh chim dang rộng để cản không khí, chân chim duỗi thẳng chuẩn bị sẵn sàng cho sự hạ cánh được thuận tiện .

Các tư thế bay vỗ cánh của chim bồ câu[sửa|sửa mã nguồn]

  • Khi chim bay thân nằm xiên, đuôi xòe ngang, cổ vươn thẳng về phía trước, chân duỗi thẳng áp sát vào thân, cánh mở rộng đập liên tục từ trên xuống dưới, từ trước về sau. Sau đó chim nâng cánh bằng cách gập cánh lại, rồi nâng lên làm giảm sức cản của không khí. Khi chim đập cánh, phía ngoài cánh hạ thấp hơn phía trong thì cánh không những được không khí nâng lên mà chim còn được đẩy về phía trước.

Hệ thống phân loại và tiến hóa[sửa|sửa mã nguồn]

Danh sách dưới đây liệt kê những chi, phân loại theo nhóm và tên khoa học .

Họ Columbidae

Cu luồng (Chalcophaps indica), loài bản địa khu vực nhiệt đới miền nam ), loài địa phương khu vực nhiệt đới gió mùa miền nam châu Á và nước Australia Bồ câu đuôi quạt .

Biểu tượng cho hòa bình

Do thái giáo và Kitô giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Trong Do Thái giáo và Kitô giáo, con chim bồ câu là hình tượng của tự do chính bới theo Kinh Thánh, nó đã đem cành ô liu báo hiệu cho con tàu Nô-ê rằng Thiên Chúa đã thôi cơn thịnh nộ. Bên cạnh đó, Tân Ước cũng ghi nhận chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh thần, Open như một hình tượng cơ bản của sự trong sáng, sự chất phác, sự hòa thuận, sự kỳ vọng. Ngoài ra, bồ câu còn bộc lộ cho sự thăng hoa của bản năng và đặc biệt quan trọng là sự thăng hoa của ái tình ( éros ) .

Tôn giáo đa thần[sửa|sửa mã nguồn]

Một con bồ câu chết ở nghĩa trangTrong nhãn quan của tôn giáo đa thần, với sự định giá một cách khác khái niệm trong trắng, không trái chiều nó mà hòa nhập nó với tình yêu xác thịt, bồ câu con chim của nữ thần Aphrodite, bộc lộ cho ái ân toàn vẹn mà tình nhân thường Tặng Kèm cho đối tượng người tiêu dùng của mình. Nhưng ý niệm thực ra chỉ khác nhau về vẻ bên ngoài ấy đã làm cho bồ câu nhiều khi trở thành hình tượng cho cái không hề tử trận trong con người, tức là bản nguyên của sự sống, linh hồn. Với tư cách ấy trên một số ít vại chôn cất của người Hi Lạp, bồ câu được họa hình uống từ một cái bình tượng trưng cho nước nguồn của trí nhớ. Hình ảnh này được tiếp đón vào trong hệ hình tượng của đạo Kitô, ví dụ như trong truyện tử vì đạo của thánh Polycarpe, một con chim bồ câu đã bay ra từ thi hài của vị thánh này .Tất cả những biểu trưng ấy xuất phát hiển nhiên từ vẻ đẹp và sự duyên dáng của con chim này, từ màu trắng tinh khiết và tiếng gù êm ái của nó. Cái đó lý giải vì sao trong ngôn từ thường thì nhất cũng như cao siêu nhất, trong lối nói lóng của dân Paris cũng như trong Tuyệt diệu ca, từ bồ câu xuất hiện trong số những ẩn dụ thông dụng nhất ngợi ca người phụ nữ. ” Linh hồn càng tiến gần tới ánh sáng bao nhiêu “, Jean Daniélou viết, dẫn lời thánh Grégoire ở Nysse, ” nó càng trở nên đẹp bấy nhiêu và trong ánh sáng đó sẽ tiếp đón hình bồ câu “. Thế nhưng chẳng phải người đang yêu đương say đắm vẫn gọi người mình yêu là ” linh hồn của anh ơi ” sau cuối xin ghi chú rằng chim bồ câu là một con chim đặc biệt quan trọng dễ gần, là điều làm ngày càng tăng giá trị luôn luôn chính diện của hình tượng này .
Ở Trung Hoa cổ, theo nhịp cơ bản của những mùa, âm và dương tiếp nối đuôi nhau nhau, con chim bồ cắt biến thành bồ câu và bồ câu biến thành chim bồ cắt, do đó chim bồ câu được xem là hình tượng của mùa xuân vì nó Open trở lại vào tiết xuân phân tháng tư. Phải chăng đó là nguồn gốc của cái tên ” bồ câu – bồ cắt ” gán cho nhà trinh thám ?Ở xứ Kabylie, những con chim bồ câu vây quanh ngôi mộ của ông thánh đạo Hồi là thành hoàng của làng ; nhưng ở nhiều nơi khác, chim bồ câu được xem là giống chim báo điều gở vì tiếng gù của chim là lời kêu than của những linh hồn đau khổ .
Một điều hiển nhiên trong ý niệm quốc tế thời nay, con chim bồ câu là hình tượng cho sự độc lập, yên vui và niềm hạnh phúc, và hình tượng đó ăn sâu vào tiềm thức của tổng thể mọi người, qua từng thế hệ và qua từng cuộc cuộc chiến tranh, tuy rằng hình tượng chim bồ câu chỉ mới chính thức trở thành hình tượng tự do sau Chiến tranh quốc tế II. Trong những sự kiệm phản chiến hay đấu tranh vì tự do, độc lập thì tất cả chúng ta không lạ khi thấy những con chim bồ câu được trang trí trên những biểu ngữ, cờ và áo … nó tượng trưng cho một sự nỗ lực vì tự do của trái đất .

  • Jean Chevalier, Alain Gheerbrant. Dictionnaire des symboles. Édition revue et augmentée. Robert Laffont, Pairis 1992.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

(tiếng Anh)

(tiếng Việt)

Rate this post

Bài viết liên quan